Bản án 128/2017/HSST ngày 27/12/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỊNH QUÁN, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 128/2017/HSST NGÀY 27/12/2017 VỀ TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27/12/2017, tại Trụ sở TAND huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 91/2017/HSST ngày 18/8/2017; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 157/HSST- QĐ ngày 08/12/2017 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn D (tên gọi khác: V ), sinh năm 1986; Nơi sinh: ĐN; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp 3, xã GC, huyện ĐQ, tỉnh ĐN; Chỗ ở: như trên; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: không biết chữ; con ông: không rõ; con bà Nguyễn Thị B; bị cáo là con duy nhất trong gia đình; Tiền án: 01 tiền án ngày 26/5/2013 bị Tòa án nhân dân thị xã LK, tỉnh ĐN xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/4/2014 nhưng chưa được xóa án tích.

Tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Ngày 26/12/2002 bị Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đ xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Ngày 29/12/2005 bị Tòa án nhân dân huyện TrB, tỉnh Đ xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Ngày 29/8/2008 bị Tòa án nhân dân huyện ĐQ, tỉnh Đ xử phạt 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị bắt tạm giam từ ngày 12/7/2017 đến ngày 18/8/2017 thì được thay đổi biện pháp ngăn chặn Bảo lĩnh. Bị cáo tại ngoại.

* Người bị hại: Anh Trần Nguyên K, sinh năm 1977.

Địa chỉ: số 54/29/38 Đình NX, phường B, Quận B, TP.H.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

1, Anh Nguyễn Minh T, sinh năm 1989.

Địa chỉ: Khu 3, ấp 3, xã G, huyện ĐQ, tỉnh Đ.

2/ Chị Lê Thị Thu Thủy, sinh năm 1997.

Địa chỉ: ấp 3, xã GC, huyện ĐQ, tỉnh Đ.

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa.

NHẬN THẤY

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, quá trình xét hỏi tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 03 giờ ngày 12/7/2017, Nguyễn Văn D điều khiển xe mô tô biển số 51X3 – 5363 đi từ nhà ở ấp 3, xã GC, huyện ĐQ, tỉnh Đ ra khu vực thị trấn Đ với mục đích tìm nhà dân nào sơ hở để trộm cắp tài sản. Khi D đi qua nhà chị Trần Nguyễn Quỳnh N, sinh năm 1979, tại ấp 7, xã GC, huyện ĐQ, tỉnh Đ, thấy nhà chị N không khóa cửa, D dựng xe ngoài đường rồi vào bên trong trộm cắp tài sản là đồ nghề làm mộc của anh Trần Nguyên K, đang để tại nhà chị N gồm: 03 máy cưa gỗ cầm tay nhãn hiệu Makita, nhãn hiệu Ozito và nhãn hiệu Hitachi, 03 máy khoan tay nhãn hiệu Bosch, nhãn hiệu Kainuo và nhãn hiệu Maktec, 01 máy mài nhãn hiệu Hitachi, 01 máy bơm hơi nước nhãn hiệu Classic, 01 ổ cắm điện. Sau khi lấy những tài sản trên, D mang về nhà để cất dấu. Đến khoảng 08 giờ cùng ngày, D mang 02 máy cưa cầm tay nhãn hiệu Makita và nhãn hiệu Ozito, 02 máy khoan nhãn hiệu Bosch, nhãn hiệu Kainuo và nhãn hiệu Maktec, 01 máy mài nhãn hiệu Hitachi, bán cho Nguyễn Minh T được 1.100.000đ tiêu xài cá nhân. Đến khoảng 20 giờ cũng ngày, Dẻ bị cơ quan Công an phát hiện và bắt giữ.

Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 21/7/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Định Quán kết luận:

- 01 máy cắt gỗ (cưa lọng) cầm tay nhãn hiệu Makita đã qua sử dụng có giá trị 750.000đ.

- 01 máy cưa nhãn hiệu Ozito đã qua sử dụng có giá trị 1.000.000đ.

- 01 máy cưa tay bằng pin nhãn hiệu Hitachi đã qua sử dụng có giá trị 750.000đ

- 01 máy khoan tay bằng pin nhãn hiệu Bosch đã qua sử dụng trị giá 1.500.000đ

- 01 máy khoan bê tông nhãn hiệu Kainuo đã qua sử dụng trị giá 900.000đ.

- 01 máy khoan điện nhãn hiệu Maktec đã qua sử dụng trị giá 600.000đ.

- 01 máy mài nhãn hiệu Hitachi đã qua sử dụng trị giá 450.000đ.

- 01 máy bơm hơi nước nhãn hiệu Classic đã qua sử dụng trị giá 1.200.000đ

- 01 ổ cắm điện trị giá 30.000đ. Tổng giá trị là 7.180.000đ. Cơ quan Công an huyện Đ đã thu hồi và giao trả cho chủ sở hữu.

Đối với xe mô tô biển số 51X3 – 5363, D khai đây là tài sản của chị Lê Thị Thu T. Do chưa xác minh được nguồn gốc nên Cơ quan cảnh sát điều tra xác minh xử lý sau. Anh Nguyễn Minh T là người mua tài sản nhưng không biết những tài sản trên là do D trộm cắp được nên không xử lý.

Tại bản cáo trạng số: 93/VKS-HS ngày 18/8/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn D về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng nêu trên và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ theo điểm p khoản 1, 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo D từ 09 tháng đến 12 tháng tù.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên.

XÉT THẤY

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Lời khai nhận tội của bị cáo với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 03 giờ ngày 12/7/2017, Nguyễn Văn D đã lén lút thực hiện hành vi trộm cắp tài sản (máy móc làm thợ mộc )của anh Trần Nguyên K tại ấp 7, xã GC, huyện ĐQ, tỉnh Đ. Tổng giá trị tài sản bị cáo trộm là 7.180.000đ nên Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự là có căn cứ; Bị cáo có một tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này là tái phạm theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn gây mất trật tự, trị an tại địa phương. Bịcáo đã nhiều lần bị Tòa án xét xử về hành vi trộm cắp tài sản của người khác, nhưng không lấy đó là bài học để tu dưỡng đạo đức mà lại tiếp tục phạm tội là thể hiện tính coi thường pháp luật, nên cần phải xử phạt bị cáo một mức án nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung là cần thiết.

Tuy nhiên, khi lượng hình Hội đồng xét xử đã xem xét bị cáo thành khẩn khai báo, tài sản đã được thu hồi và trả lại cho chủ sở hữu, bị cáo đang điều trị bệnh HIV, gia đình có hoàn cảnh khó khăn là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm p khỏan 1, 2 Điều 46- của Bộ luật hình sự; bị cáo có nhân thân xấu, có 01 tình tiết tăng nặng quy định tại khoản 1 điều 48 của Bộ luật hình sự.

Về trách nhiệm dân sự: người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quankhông yêu cầu gì nên không xem xét giải quyết.

Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí HSST.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn D (tên gọi khác: V), phạm tội "Trộm cắp tài sản".

- Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1, 2 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều48; Điều 33 - Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn D 01(một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án và được trừ thời gian tạm giam từ ngày 12/7/2017 đến ngày 18/8/2017.

- Áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày30 tháng 12 năm 2016. Buộc các bị cáo D phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc Tòa án niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

277
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 128/2017/HSST ngày 27/12/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:128/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Định Quán - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về