Bản án 127/2020/HS-ST ngày 18/12/2020 về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH XUYÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 127/2020/HS-ST NGÀY 18/12/2020 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 18 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm kín vụ án hình sự thụ lý số: 132/2020/TLST - HS ngày 02 tháng 12 năm 2020. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 130/2020/QĐXXST - HS ngày 04 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Trần Quý D (tên gọi khác là Trần Quang S), sinh năm 1994 tại xã K, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc; nơi cư trú: thôn 1, xã K, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Quang T và bà Nguyễn Thị S; vợ con: chưa có; tiền án, tiền sự: Không; tại ngoại tại địa phương, “có mặt”.

- Bị hại: Cháu Dương Diệu T, sinh ngày 07 tháng 9 năm 2004;

Nơi cư trú: Thôn T, xã T, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc, “có mặt”.

- Người đại diện hợp pháp của bị hại: Chị Lưu Thị N, sinh năm 1977 (mẹ đẻ của cháu T);

Nơi cư trú: Thôn T, xã T, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc, “có mặt”.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cháu T: Bà Kim Hồng T là trợ giúp viên pháp lý của trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Vĩnh Phúc “có mặt”.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị S, sinh năm 1972;

Nơi cư trú: Thôn 1, xã T, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc “có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 8/2020 Trần Quý D (tên gọi khác là Trần Quang S), sinh năm 1994 có quan hệ yêu đương với Dương Diệu T, sinh ngày 7/9/2004 (T mới 15 tuổi 11 tháng 03 ngày). Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 10/8/2020, D đến chơi tại nhà T ở thôn T, xã T, huyện B. Lúc này chỉ có một mình T ở nhà. D và T ngồi nói chuyện tâm sự tại phòng khách tầng 1 thì D có hỏi T cho D quan hệ tình dục nhưng bị T từ chối và đuổi D đi về. Khi D ra về qua khỏi cổng nhà thì T lại gọi D quay lại. Sau đó, D đi vào phòng khách nhà T và nói với T: “Mệt thì lên tầng nghỉ đi để anh còn về” rồi đưa T lên phòng ngủ tại tầng hai. Khi lên phòng ngủ D ngồi xuống giường ôm hôn T rồi đẩy T nằm xuống giường và cởi quần của T ra để quan hệ tình dục với T thì T nằm im đồng ý cho D quan hệ. Sau khi cởi quần của T, D ngồi dậy tự cởi quần áo của mình rồi thực hiện hành vi quan hệ tình dục với T. Sau khi quan hệ tình dục xong cả hai xuống phòng khách tầng 1 ngồi nói chuyện tâm sự khoảng 10 phút sau thì D ra về.

Ngày 12/8/2020, chị Lưu Thị N và anh Dương Văn B trú tại thôn T, xã T, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc (là bố mẹ đẻ cháu T) phát hiện sự việc D đã thực hiện hành vi quan hệ tình dục với cháu T nên anh B đã dùng 01 đoạn tre dài khoảng 50cm đánh vào ngực, lưng, chân của cháu T gây bầm tím. Sau đó, chị N đã đưa cháu T đến Cơ quan CSĐT - Công an huyện Bình Xuyên tố cáo hành vi của Trần Quý D. Cơ quan CSĐT Công an huyện Bình Xuyên đã tiến hành khám nghiệm hiện trường T giữ: tại phòng ngủ của Dương Diệu T 01 mảnh chiếu kích thước (15x8) cm có bám dính chất màu nâu đỏ (T khai đây là vùng dịch khi quan hệ tình dục với D để lại); tại bãi đất trống cạnh nhà chị Lưu Thị N 01 mảnh vải màu đen kích thước (17x30) cm (D khai đây là mảnh vải lau vùng tinh dịch khi quan hệ tình dục với T để lại).

Tại Kết luận giám định pháp y về tình dục số 66/TD ngày 20/8/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Vĩnh Phúc, kết luận: Màng trinh hình vành khăn, rách mới ở vị trí 04 giờ và 08 giờ; hiện tại không tìm thấy xác tinh trùng trong dịch âm hộ, âm đạo. Trong buồng tử cung không có thai. Tổn hại sức khỏe tại thời điểm giám định là: 0% (Không phần trăm).

Tại Kết luận giám định pháp y về tình dục số 67/TD ngày 20/8/2020 của Trung tâm Pháp y tỉnh Vĩnh Phúc, kết luận: Dương vật của Trần Quý D cương cứng tốt, có khả năng quan hệ tình dục.

Ngày 27/8/2020, Viện pháp y quân đội có bản Kết luận giám định AND số HT175.20/PY - XN xác định: Trong mẫu máu của Trần Quý D âm tính HIV. Không phát hiện thấy AND nhiễm sắc thể Y từ dấu vết tăm bông thấm dịch trong âm đạo của T và trên mảnh vải màu đen T tại hiện trường. Dấu vết trên mảnh chiếu trải giường có AND nhiễm sắc thể Y trùng khớp với AND nhiễm sắc thể Y của Trần Quý D. Dấu vết trên tăm bông thấm tại đầu dương vật của D có AND nhiễm sắc thể thường của nam giới, không trùng khớp với AND nhiễm sắc thể thường trên tăm bông thấm dịch trong âm đạo của T.

Tại bản cáo trạng số 134/CT - VKSBX ngày 30 tháng 11 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc truy tố bị cáo Trần Quý D (S) về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo khoản 1 Điều 145 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Trần Quý D (S) về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: khoản 1 Điều 145; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Trần Quý D (S) từ 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng đến 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự; Các Điều 584, 585, 586 và 592 của Bộ luật Dân sự. Xác nhận sự tự thỏa thuận về việc bồi thường thiệt hại dân sự giữa bị cáo D (S) với đại diện gia đình bị hại (bà N), số tiền là 70.000.000 đồng. Xác nhận bị cáo D (S) đã bồi thường xong.

Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên đề nghị xử lý vật chứng và án phí theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của những người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại đều trình bày và xác nhận: Việc bị cáo trình bày là đúng. Bị hại yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 70.000.000đồng gồm tiền bồi thường về sức khỏe, tổn hại về danh dự nhân phẩm. Trước khi xét xử chị Nguyễn Thị S là mẹ đẻ bị cáo D (S) đã cùng với bị cáo tự nguyện bồi thường cho bị hại số tiền 70.000.000đồng. Về hình phạt bị hại đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Về phần dân sự đề nghị Tòa án ghi nhận các bên đã bồi thường cho nhau số tiền 70.000.000 đồng. Xác nhận bị cáo D (S) đã bồi thường xong.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trình bày: Chị là mẹ đẻ của bị cáo D (S). Trước khi xét xử chị đã cùng D bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 70.000.000 đồng. Số tiền này một phần là của D (S), một phần là của chị cho con trai chị để bồi thường cho bị hại. Chị không có yêu cầu đề nghị gì đối với số tiền trên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra, Kiểm sát viên, Viện kiểm sát trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đầy đủ, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó các quyết định, hành vi của người tiến hành tố tụng, Cơ quan tiến hành tố tụng trong vụ án là hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Trần Quý D (S) đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên; cụ thể: Do có mối quan hệ tình cảm yêu đương từ trước, nên khoảng 13 giờ 30 phút ngày 10/8/2020 tại nhà ở của gia đình chị Lưu Thị N (mẹ đẻ của T) tại thôn Tiền Phong, xã Tân Phong, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc. Được sự đồng ý của cháu Dương Diệu T, sinh ngày 7/9/2004 (tại thời điểm này T 15 tuổi, 11 tháng 03 ngày) Trần Quý D, sinh năm 1994 (trên 18 tuổi) đã thực hiện hành vi giao cấu với cháu T. Xét lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của bị hại…; kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác được T thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án đã thẩm tra tại phiên tòa có đủ cơ sở để kết luận hành vi của Trần Quý D đã cấu thành tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 145 Bộ luật hình sự Khoản 1 Điều 145 Bộ luật hình sự qui định: “1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.., thì bị phạt từ từ 1 năm đến 5 năm”...

[3] Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã chủ động lôi kéo người chưa đủ 16 tuổi quan hệ tình dục đã xâm phạm sự phát triển bình thường về mặt tình dục, gây ảnh hưởng xấu đến tâm sinh lý, danh dự nhân phẩm của người chưa đủ 16 tuổi được pháp luật bảo vệ. Gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị, trật tự tại địa phương nên cần phải xử lý nghiêm mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Xét nhân thân cũng như các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo, thấy rằng: Bị cáo Trần Quý D (S) là người có nhân thân tốt, bản thân chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu. Sau khi phạm tội, bị cáo đã cùng với gia đình tự nguyện bồi thường số tiền 70.000.000 đồng cho bị bại, do đại diện hợp pháp của bị hại là chị Lưu Thị N nhận. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do đó, bị cáo được hưởng ba tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, tại phiên tòa bị hại và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên cần áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Mặt khác, nguyên nhân phạm tội của bị cáo cũng xuất phát một phần do nhận thức pháp luật còn hạn chế và từ sự quan tâm, quản lý lỏng lẻo của các bậc cha mẹ đối với con cái. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức hình phạt tù tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi bị cáo đã thực hiện như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị hại, người đại diện của bị hại và bị cáo thỏa Tận: Bị cáo có trách nhiệm bồi thường cho bị hại tổng số tiền là 70.000.000đồng. Xét thấy, gia đình bị hại đã nhận đủ số tiền trên và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm về dân sự nên cần xác nhận.

Đối với Dương Văn B là bố đẻ T. Khi phát hiện sự việc D và T có quan hệ tình dục với nhau đã sử dụng 01 đoạn tre dài khoảng 50cm, đường kính 01cm vụt trúng phần ngực, lưng và bắp chân gây bầm tím cho cháu T. Tuy nhiên, quá trình điều tra cháu T đã có đơn từ chối giám định thương tích. Ngày 6/11/2020, Cơ quan CSĐT - Công an huyện Bình Xuyên đã ra Quyết định xử phạt hành chính đối với anh Dương Văn B với số tiền 1.750.000 đồng.

[6] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 mảnh chiếu có kích thước (15 x 8) cm và 01 mảnh vải màu đen có kích thước (17 x 30) cm Cơ quan giám định hoàn trả do không còn giá trị sử dụng cần tịch T tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Quý D (tên gọi khác là Trần Quang S) phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.

Căn cứ khoản 1 Điều 145; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trần Quý D (tên gọi khác là Trần Quang S) 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 của Bộ luật Hình sự; các Điều 584, 585, 586 và 592 của Bộ luật dân sự, xác nhận bị cáo Trần Quý D (tên gọi khác là Trần Quang S) đã bồi thường cho đại diện hợp pháp của bị hại là chị Lưu Thị N số tiền 70.000.000 đồng (Bảy mươi triệu đồng). Chị N không yêu cầu bị cáo Trần Quý D (tên gọi khác là Trần Quang S) phải bồi thường gì thêm về dân sự.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch T tiêu hủy: Đối với 01 mảnh chiếu có kích thước (15 x 8) cm và 01 mảnh vải màu đen có kích thước (17 x 30) cm có đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Xuyên lập ngày 02 tháng 12 năm 2020.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức T, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Trần Quý D (tên gọi khác là Trần Quang S) phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

277
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 127/2020/HS-ST ngày 18/12/2020 về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

Số hiệu:127/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Xuyên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về