TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 3, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 127/2020/HS-ST NGÀY 07/12/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 07 tháng 12 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 105/2020/TLST-HS ngày 26 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 527/2020/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 11 năm 2020 đối với các bị cáo:
1. TRẦN NGỌC H, Giới tính: Nam; sinh ngày 18/6/1983 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: Số 529 Đường T, Phường 12, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Sửa xe; Trình độ văn hóa: 08/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Vục Q và bà Nguyễn Thị P; Có vợ và 02 con (con lớn nhất sinh năm 2010 và con nhỏ nhất sinh năm 2017).
Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân:
- Ngày 25/9/2002, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 (ba) năm tù về tội “Cướp giật tài sản” theo Bản án số 1383/HSST.
- Ngày 20/02/2006, bị Tòa án nhân dân Quận 8, TP. Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Bản án số 61/HSST.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/7/2020 (Bị cáo H có mặt) 2. VÕ HUY C, Giới tính: Nam; sinh ngày 27/11/1985 tại Đồng Tháp; Hộ khẩu thường trú: 166A, ấp B, Thị trấn Lấp Vò, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp; Nghề nghiệp: Thợ hồ; Trình độ văn hóa: 8/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;
Quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Thanh H và bà Hình Thị Bé T; Có vợ và 02 con (con lớn nhất sinh năm 2011 và con nhỏ nhất sinh năm 2015).
Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/7/2020 (Bị cáo C có mặt) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Hồ Thị Ái V, sinh năm 1983 Địa chỉ: Số 529 Đường T, Phường 12, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 00 giờ 45 phút, ngày 12/7/2020, Tổ Hình sự đặc nhiệm - Công an Quận 3 tuần tra trên địa bàn Quận 3 khi đến trước số 384 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3 thì phát hiện bị cáo Trần Ngọc H điều khiển xe Wave biển số 59V1 - 361.13 phía sau chở bị cáo Võ Huy C có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu dừng xe để kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra phát hiện và thu giữ trong túi quần phía trước bên phải của bị cáo C có 01 bộ sử dụng ma túy và trong túi quần phía trước bên trái có 01 hộp giấy bên trong có 01 bao nylon chứa tinh thể rắn không màu (nghi là ma túy). Tổ tuần tra đã đưa bị cáo Trần Ngọc H và bị cáo Võ Huy C cùng tang vật về trụ sở Công an Phường 8, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh lập biên bản bắt phạm tội quả tang, chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an Quận 3 xử lý.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an Quận 3, các bị cáo khai nhận như sau:
Bị cáo Võ Huy C khai nhận: Vào khoảng 18 giờ 30 phút, ngày 11/7/2020, bị cáo C đang nhậu tại số 710 Đường P, Phường 10, Quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh thì có người bạn tên Nguyễn Văn D nhờ mua ma túy về sử dụng chung. D đưa cho bị cáo C số tiền 1.000.000 đồng để mua ma túy. Bị cáo C gọi điện cho bị cáo Trần Ngọc H nhờ bị cáo H mua ma túy thì bị cáo H đồng ý. Đến khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, bị cáo C đi xe ôm đến nhà bị cáo H tại số 529 Đường T, Phường 12, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh gặp bị cáo H. Sau đó, bị cáo H điều khiển xe Wave biển số 59V1 - 361.13 chở bị cáo C đến chân cầu Nhị Thiên Đường để ăn tối thì bị cáo C đưa cho bị cáo H 1.000.000 đồng để bị cáo H đi mua ma túy. Bị cáo H điều khiển xe Wave biển số 59V1 - 361.13 đi một lúc sau quay lại chở bị cáo C đi mua bộ sử dụng ma túy (nỏ thủy tinh) tại một cửa hàng gần chợ Phạm Thế Hiển, Phường 4, Quận 8 (không nhớ rõ địa điểm) rồi chở bị cáo C về Quận Gò Vấp. Trên đường đi, bị cáo H đưa cho bị cáo C 01 hộp giấy bên trong có 01 bao nylon đựng ma túy. Bị cáo C bỏ hộp giấy vào túi quần bên trái, nỏ thủy tinh vào túi quần bên phải khi đến trước số 384 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị bắt quả tang.
Bị cáo Trần Ngọc H khai nhận: Vào khoảng 22 giờ ngày 11/7/2020, bị cáo H đang ở nhà tại số 529 Đường T, Phường 12, Quận 8 thì nhận được điện thoại của bạn là bị cáo Võ Huy C nhờ mua ma túy thì bị cáo H đồng ý. Khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, bị cáo C đi xe ôm đến nhà bị cáo H tại số 529 Đường T, Phường 12, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh rồi bị cáo H điều khiển xe Wave biển số 59V1 - 361.13 chở bị cáo C đến chân cầu Nhị Thiên Đường để ăn tối. Sau đó, bị Cáo C đưa cho bị cáo H 1.000.000 đồng để bị cáo H đi mua ma túy. Bị cáo H điều khiển xe máy qua bên kia cầu gặp người phụ nữa không rõ nhân thân, lai lịch thường gọi là “Má” mua 01 hộp ma túy bỏ trong hộp giấy với giá 800.000 đồng, còn lại 200.000 đồng bị cáo H giữ lại lấy tiền công. Sau khi mua ma túy xong, bị cáo H quay lại chở bị cáo C đi mua bộ sử dụng ma túy tại một cửa hàng gần chợ Phạm Thế Hiển, Phường 4, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh (không nhớ rõ địa điểm) rồi chở bị cáo C về Gò Vấp. Khi đến trước số 384 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị phát hiện bắt giữ như đã nêu trên.
Tại Kết luận giám định số 1183/KLGĐ-H ngày 20/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có dấu V tay, chữ ký ghi tên Võ Huy C và hình dấu Công an Phường 8, Quận 3 là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0.8537g (không phẩy tám năm ba bảy gam), loại Methamphetamine.
Vật chứng của vụ án:
Tạm giữ đồ vật của bị cáo Võ Huy C gồm:
- Gói mẫu vật được niêm phong bên ngoài, bên trong có chứa chất tinh thể không màu (m) là mẫu vật còn lại sau khi giám định có khối lượng 0,7929gr;
- 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá bằng thủy tinh;
- 01 (một) hộp giấy bên ngoài có dòng chữ “Bánh đậu xanh TIÊN DUNG Rồng Vàng”;
- 01 điện thoại di động hiệu Samsung, màu hồng, model: SM-G532G/DS, số IMEI 355213/09/412338/7, số IMEI 355214/09/412338/5. Tình trạng máy đã qua sử dụng, máy móc bên trong không kiểm tra, kèm 02 sim Viettel có số 8984048000042647682 và 89840480000426447683;
Tạm giữ đồ vật của bị cáo Trần Ngọc H gồm:
- 01 (một) điện thoại đi động hiệu REDMI, màu đen - xanh dương, model M1810F6LG, không rõ số IMEI. Tình trạng máy đã qua sử dụng, máy móc bên trong không kiểm tra, kèm 01 sim có số 8401180851657206WD;
- 01 (một) xe gắn máy hiệu Honda, biển số 59V1 - 361.13, số khung: RLHHC1200BY221714, số máy: HC12E3021775.
Tại Cáo trạng số 83/CT-VKS-HS ngày 23 tháng 10 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 đã truy tố bị cáo Trần Ngọc H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Bị cáo Võ Huy C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Tại phiên tòa, Các bị cáo Trần Ngọc H, bị cáo Võ Huy C có lời khai phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Hồ Thị Ái V trình bày: Chiếc xe gắn máy hiệu Honda, biển số 59V1 - 361.13 do bà đứng tên chủ sở hữu. Bà không biết việc bị cáo H dùng xe trên để làm phương tiện đi mua bán ma túy và xin được nhận lại chiếc xe máy.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 vẫn giữ nguyên quan điểm như cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Trần Ngọc H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Bị cáo Võ Huy C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt:
Bị cáo Trần Ngọc H từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng đến 03 (ba) năm tù.
Bị cáo Võ Huy C từ 01 (môt) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Lời nói sau cùng:
Bị cáo Trần Ngọc H: bị cáo ăn năn hối cải, xin giảm nhẹ hình phạt.
Bị cáo Võ Huy C: bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để có thể về lo cho gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Quá trình điều tra, truy tố Cơ quan điều tra Công an Quận 3, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 3, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự và thủ tục theo đúng quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tố tụng cũng như người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung bị can mà các bị cáo đã trình bày nội dung lời khai hoàn toàn tự nguyện. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Vào khoảng 00 giờ 45 phút, ngày 12/7/2020, trước số 384 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, Tổ Hình sự đặc nhiệm - Công an Quận 3 phát hiện bị cáo Trần Ngọc H chở bị cáo Võ Huy C bằng xe gắn máy biển số 59V1 – 361.13 có biểu hiện nghi vấn nên kiểm tra. Qua quá trình kiểm tra phát hiện trong túi quần phía trước bên phải của bị cáo C có 01 bộ sử dụng ma túy và trong túi quần phía trước bên trái có 01 hộp giấy bên trong có 01 bao nylon chứa ma túy. Tại Kết luận giám định số 1183/KLGĐ-H ngày 20/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có dấu V tay, chữ ký ghi tên Võ Huy C và hình dấu Công an Phường 8, Quận 3 là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0.8537g (không phẩy tám năm ba bảy gam), loại Methamphetamine.
Bị cáo Võ Huy C khai nhận: Do cần ma túy để sử dụng nên vào khoảng 22 giờ 30 phút ngày 11/7/2020, bị cáo C đã liên lạc qua điện thoại và gặp đưa cho bị cáo C số tiền 1.000.000 đồng để nhờ mua ma túy. Sau khi bị cáo H giao ma túy cho C thì C đã cất số ma túy nhờ mua trong túi quần phía trước bên trái.
Bị cáo Trần Ngọc H khai nhận: sau khi nghe điện thoại của bị cáo C nhờ mua 1.000.000 đồng tiền ma túy nên bị cáo đã ra cầu Nhị Thiên Đường, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh để mua ma túy với giá 800.000 đồng từ người phụ nữ không rõ nhân thân, lai lịch thường gọi là “Má”. Sau đó bị cáo bị cáo H đã giao số ma túy này cho bị cáo C và nhận số tiền 1.000.000 đồng nhằm hưởng tiền chênh lệch là 200.000 đồng.
[3] Bị cáo Võ Huy C và bị cáo Trần Ngọc H có năng lực trách nhiệm hình sự, các bị cáo ý thức được hành vi của mình là trái pháp luật nhưng vẫn thực hiện nên có lỗi cố ý.
[4] Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước.
[5] Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo C và bị cáo H đều đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định bị cáo Trần Ngọc H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Bị cáo Võ Huy C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;
[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Đối với bị cáo Võ Huy C: xét thấy trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Đối với bị cáo Trần Ngọc H: xét thấy trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[7] Về xử lý vật chứng:
- Đối với Gói mẫu vật được niêm phong bên ngoài, bên trong có chứa chất tinh thể không màu (m) là mẫu vật còn lại sau khi giám định có khối lượng 0,7929gr và 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá bằng thủy tinh là vật cấm lưu hành nên tịch thu và tiêu hủy;
- 01 (một) hộp giấy bên ngoài có dòng chữ “Bánh đậu xanh TIÊN DUNG Rồng Vàng” là vật chứng không có giá trị nên tịch thu và tiêu hủy;
- 01 điện thoại di động hiệu Samsung, màu hồng, model: SM-G532G/DS, số IMEI 355213/09/412338/7, số IMEI 355214/09/412338/5. Tình trạng máy đã qua sử dụng, máy móc bên trong không kiểm tra, kèm 02 sim Viettel có số 8984048000042647682 và 89840480000426447683 là phương tiện để bị cáo C liên lạc mua bán ma túy nên tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước.
- 01 (một) điện thoại đi động hiệu REDMI, màu đen - xanh dương, model M1810F6LG, không rõ số IMEI. Tình trạng máy đã qua sử dụng, máy móc bên trong không kiểm tra, kèm 01 sim có số 8401180851657206WD là phương tiện để bị cáo H liên lạc mua bán ma túy nên tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước.
- 01 (một) xe gắn máy hiệu Honda, biển số 59V1 - 361.13, số khung: RLHHC1200BY221714, số máy: HC12E3021775. Qua xác minh chiếc xe là của chị Hồ Thị Ái V (vợ của Trần Ngọc H) đứng tên chủ sở hữu. Chị V không biết về việc H dùng xe máy để làm phường tiện đi mua bán ma túy nên trả lại cho bà V.
- Đối với số tiền 233.000 đồng tịch thu của bị cáo Trần Ngọc H. Trong đó có 200.000 đồng là thu lợi bất chính có được do bán ma túy nên tịch thu thu nộp Ngân sách Nhà nước. Số tiền 33.000 đồng là tiền cá nhân của bị cáo H không liên quan đến việc mua bán ma túy nên trả lại cho bị cáo H [8] Đối với đối tượng nhờ mua ma túy tên Nguyễn Văn D, sinh năm 1994, Hộ khẩu thường trú: Khóm Bình Phú Qưới, thị trấn Lấp Vò, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp đã bỏ đi khỏi nơi cư trú nên cơ quan Công an tiếp tục truy xét để làm rõ vai trò.
[9] Đối với người phụ nữ (không rõ lai lịch) gọi là “Má” đã bán ma túy cho bị cáo C và người phụ nữ bán dụng cụ sử dụng ma túy đá (không rõ lai lịch), cơ quan công an tiếp tục truy xét và xử lý.
[10] Về án phí:
- Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo Võ Huy C phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).
- Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo Trần Ngọc H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Trần Ngọc H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 12/7/2020.
Căn cứ vào Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Tuyên bố bị cáo Võ Huy C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Võ Huy C 01 (một) năm tù.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 12/7/2020.
Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.
- Tịch thu và tiêu hủy: Gói mẫu vật được niêm phong bên ngoài, bên trong có chứa chất tinh thể không màu (m) là mẫu vật còn lại sau khi giám định có khối lượng 0,7929gr; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá bằng thủy tinh và 01 (một) hộp giấy bên ngoài có dòng chữ “Bánh đậu xanh TIÊN DUNG Rồng Vàng”;
- Tịch thu, nộp Ngân sách Nhà nước:
+ 01 điện thoại di động hiệu Samsung, màu hồng, model: SM-G532G/DS, số IMEI 355213/09/412338/7, số IMEI 355214/09/412338/5 kèm 02 sim Viettel có số 8984048000042647682.
+ 01 (một) điện thoại đi động hiệu REDMI, màu đen - xanh dương, model M1810F6LG, không rõ số IMEI, kèm 01 sim có số 8401180851657206WD.
- Trả lại 01 (một) xe gắn máy biển số 59V1 - 361.13, số khung: RLHHC1200BY221714, số máy: HC12E3021775 cho bà Hồ Thị Ái V.
(Theo Quyết định chuyển vật chứng số 54/QĐ-VKS-HS ngày 23/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 3) - Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước số tiền 200.000 đồng đã nộp vào tài khoản số 394909061612 của Công an Quận 3 tại Kho Bạc Nhà Nước Quận 3 (theo Giấy nộp tiền ngày 02/10/2020).
- Trả lại cho bị cáo Trần Ngọc H số tiền 33.000 đồng đã nộp vào tài khoản số 394909061612 của Công an Quận 3 tại Kho Bạc Nhà Nước Quận 3 (theo Giấy nộp tiền ngày 02/10/2020).
Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Án phí hình sự sơ thẩm:
Bị cáo Trần Ngọc H phải chịu là 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng);
Bị cáo Võ Huy C phải chịu là 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng);
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Áp dụng Điều 331, Điều 333, Điều 336 và Điều 337 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Các bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 127/2020/HS-ST ngày 07/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy và tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 127/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 3 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về