Bản án 127/2020/HS-PT ngày 03/03/2020 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 127/2020/HS-PT NGÀY 03/03/2020 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 03 tháng 3 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 34/2020/HSPT ngày 07/01/2020 đối với bị cáo Lê Tấn Tùng, Huỳnh Minh H do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 227/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh.

Các bị cáo có kháng cáo:

1. Lê Tấn A (tên gọi khác: China), sinh năm 1995 tại thành phố Hồ Chí Minh; nơi thường trú: xã B, huyện C, thành phố Hồ Chí Minh; trình độ học vấn: 6/12; nghề nghiệp: không; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn D và bà Lê Thị E; chưa có vợ, con.

Tiền án: Tại bản án số 71/2014/HSST ngày 19/3/2014 bị Tòa án nhân dân huyện C xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 10/11/2015, chưa đóng án phí.

Tiền sự: Ngày 22/5/2013, bị Công an xã B, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 750.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”, chưa đóng phạt; Ngày 14/9/2016, bị Ủy ban nhân dân xã G, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 21 tháng, đến ngày 05/4/2018 chấp hành xong.

Nhân thân: Ngày 30/6/2011, bị Ủy ban nhân dân huyện C áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng về hành vi “Trộm cắp tài sản” với thời hạn 18 tháng, chấp hành xong ngày 30/11/2012; Ngày 08/01/2019, bị Tòa án nhân dân huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng.

Bị bắt, tạm giam từ ngày 09/8/2019. (có mặt).

2. Huỳnh Minh H (tên gọi khác: Bi); sinh ngày 01 tháng 01 năm 2000 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi thường trú: phường L, quận M, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Nhà không số thuộc tổ 1, Ấp 3A, xã B, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ học vấn: 7/12; nghề nghiệp: không; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Minh O và bà Trần Thị Bích P; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Ngày 08/01/2019, bị Tòa án nhân dân huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 15 tháng, đến ngày 09/8/2019 bị di lý về điều tra.

Bị bắt, tạm giam từ ngày 09/8/2019. (có mặt).

Người bào chữa: Luật sư Nguyễn Tuấn Tâm thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Huỳnh Minh H. (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 02 giờ ngày 17/10/2018, Huỳnh Minh H điều khiển xe môtô (không rõ biển số) chở Lê Tấn A đi qua nhà bạn tên Dương (không rõ lai lịch). Trên đường đi, A quan sát thấy cửa cuốn nhà B7/2C, ấp 2A, xã B, huyện C của bà Nguyễn Thị Tuyết Q bị hở nên nảy sinh ý định lấy trộm tài sản. A kêu Huỳnh Minh H dừng xe cho A xuống rồi đưa điện thoại di động cho H, kêu H đi đâu chơi, khi nào A gọi thì quay lại đón. Sau khi H điều khiển xe đi, A đi bộ về phía nhà bà Q rồi chui qua khe hở của cửa cuốn vào bên trong nhà lấy một điện thoại di động hiệu iPhone 6S để tại chân cầu thang và một bóp da màu nâu trên kệ tivi bỏ vào túi quần đang mặc rồi chui ra ngoài. Tùng gọi điện thoại kêu H đến chở về nhà tại địa chỉ D7/7 ấp 4, xã B, huyện C. Tại đây, A lấy điện thoại đi động và bóp da ra kiểm tra bên trong bóp có 14.000.000 đồng và nói cho H biết vừa mới lấy trộm số tài sản này. Sau đó, A chia cho H 7.000.000 đồng, còn A giữ 7.000.000 đồng và 01 điện thoại di động. Đến ngày 18/10/2018, A mang điện thoại di động trộm cắp được bán cho một thanh niên người tên Tuấn (không rõ lai lịch) với giá 1.000.000 đồng. Toàn bộ số tiền có được từ việc trộm cắp, A và H mua ma túy sử dụng và tiêu xài hết.

Qua rà soát camera của nhà bà Q, Công an xã triệu tập Lê Tấn A đến trụ sở làm việc, A đã thừa nhận hành vi phạm tội và khai nhận đi cùng Huỳnh Minh H.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C, Lê Tấn A khai nhận hành vi phạm tội nêu trên; Huỳnh Minh H khai nhận khi chở A về nhà thì A mới nói cho Huỳnh Minh H biết vừa trộm cắp tài sản, và được chia 7.000.000 đồng. Sau đó, H chở A đi thuê khách sạn để cả hai sử dụng ma túy, khi đi ngang qua nhà bà Q thì A ném bóp da qua khe cửa của nhà bà Q. Lời khai của A và H phù hợp với hình ảnh camera thu được và các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 1405/HĐĐG-TTHS-TCKH ngày 24/6/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C xác định giá trị một điện thoại di động hiệu iPhone 6S bị chiếm đoạt trị giá 1.840.500 đồng. Tổng trị giá tài sản Tùng chiếm đoạt được là: 15.840.500 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 227/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đã QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; khoản 1 Điều 323; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017):

- Xử phạt bị cáo Lê Tấn A 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09/8/2019.

- Xử phạt bị cáo Huỳnh Minh H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09/8/2019.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 02/12/2019, bị cáo Huỳnh Minh H có đơn kháng cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 02/12/2019, bị cáo Lê Tấn Tùng có đơn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện C xin được giảm nhẹ hình phạt với lý do mức án mà Tòa án huyện C đã tuyên là quá nặng. Đến ngày 06/12/2019, bị cáo Lê Tấn Tùng đã làm đơn rút toàn bộ kháng cáo. Ngày 26/02/2020, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã ra Thông báo số 1614/2020/TB-THS về việc bị cáo rút kháng cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm ngày hôm nay, bị cáo Lê Tấn Tùng xác nhận đã rút toàn bộ kháng cáo, mong sớm được chấp hành án và không có ý kiến gì khác. Bị cáo Huỳnh Minh H thừa nhận những hành vi phạm tội do bị cáo gây ra như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do đã nhận thức được việc làm của mình là sai trái, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, mức án Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên là quá nặng.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xác định bản án sơ thẩm đã áp dụng đúng các căn cứ pháp luật để xử phạt bị cáo Huỳnh Minh H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, sau khi xét xử sơ thẩm các bị cáo kháng cáo trong thời gian hợp lệ. Trước khi mở phiên tòa bị cáo Lê Tấn Tùng đã rút toàn bộ kháng cáo nên đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Tùng. Đối với kháng cáo của bị cáo Huỳnh Minh H thì Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét cho bị cáo đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình các bị cáo đã khắc phục hậu quả bồi thường thiệt hại theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, tại phiên tòa bị cáo cũng không nêu thêm được tình tiết nào mới, bản thân bị cáo là người nghiện ma túy, bị đưa đi cai nghiện bắt buộc, mức án 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên với bị cáo Huỳnh Minh H là phù hợp. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Huỳnh Minh H, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư Nguyễn Tuấn Tâm trình bày bài bào chữa cho bị cáo Huỳnh Minh H thống nhất về tội danh mà cấp sơ thẩm đã truy tố và xét xử, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ: bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình các bị cáo đã khắc phục hậu quả bồi thường thiệt hại cho bị hại; hiện nay bị cáo đang là lao động chính trong gia đình, cha bị cáo làm lao động phổ thông với nghề lái xe ba gác bị tai nạn, không có khả năng lao động. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về gia đình.

Bị cáo Huỳnh Minh H đồng ý với bài bào chữa của luật sư, không tranh luận bổ sung.

Tranh luận lại quan điểm của luật sư, đại diện Viện kiểm sát cho rằng: luật sư thống nhất về tội danh và khung hình phạt, chỉ nêu các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét khi lượng hình.

Trong phần nói lời sau cùng, bị cáo Huỳnh Minh H tỏ ra ăn năn hối cải, xin giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về gia đình, hòa nhập xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bình Chánh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân huyện Bình Chánh, Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thẩm phán trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản ghi lời khai, bị cáo đều trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Do trước khi mở phiên tòa, bị cáo Lê Tấn Tùng đã rút toàn bộ kháng cáo nên căn cứ vào khoản 1 Điều 342 và Điều 348 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm và không xét kháng cáo của bị cáo Lê Tấn Tùng, các quyết định của bản án sơ thẩm số 227/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện C đối với bị cáo Lê Tấn Tùng có hiệu lực thi hành.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm ngày hôm nay, bị cáo Huỳnh Minh H đã thừa nhận hành vi sai trái do bị cáo gây ra như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu. Cụ thể: bị cáo Huỳnh Minh H là người biết rõ trước đó bị cáo Lê Tấn A đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản gồm tiền và điện thoại di động của bà Nguyễn Thị Tuyết Q; biết rõ số tiền 7.000.000 đồng mà bị cáo Lê Tấn A chia cho bị cáo Huỳnh Minh H để tiêu xài cá nhân và mua ma túy sử dụng là tiền mà Tùng trộm cắp mà có được.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu chứng cứ khác như các biên bản hoạt động điều tra, biên bản hỏi cung bị can, lời khai của bị cáo Lê Tấn Tùng, lời khai của bị hại, dữ liệu camera thu thập được… nên Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên xử bị cáo Huỳnh Minh H phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội.

[3] Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình các bị cáo đã khắc phục hậu quả bồi thường thiệt hại cho bị hại theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và đã xem xét, đánh giá tính chất mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Từ đó xử phạt bị cáo với mức án 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù là đã xem xét đầy đủ, toàn diện tính chất, mức độ vi phạm của bị cáo, tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra.

[4] Về kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, xét thấy ngoài các tình tiết giảm nhẹ mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét cho bị cáo như kể trên, thì bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới chưa được xem xét. Hành vi phạm tội của bị cáo không những xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác mà còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Bản thân bị cáo là người có nhân thân xấu, là người nghiện ma túy, đã bị Tòa án ra Quyết định đưa vào cơ sở cai nghiên bắt buộc, bị cáo không có nghề nghiệp, nên quan điểm của luật sư cho rằng bị cáo là lao động chính trong gia đình là không phù hợp. Mức án 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên là phù hợp nên Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, không chấp nhận lời đề nghị của luật sư, giữ nguyên mức hình phạt mà bản án sơ thẩm đã tuyên.

Do không chấp nhận kháng cáo nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các vấn đề khác không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật. Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 342; Điều 348; điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Lê Tấn Tùng, các quyết định của bản án sơ thẩm số 227/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện C đối với bị cáo Lê Tấn Tùng có hiệu lực thi hành.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Huỳnh Minh H, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 227/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh.

Căn cứ khoản 1 Điều 323; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Huỳnh Minh H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09/8/2019.

Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội buộc bị cáo Huỳnh Minh H phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

280
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 127/2020/HS-PT ngày 03/03/2020 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Số hiệu:127/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về