Bản án 127/2020/HNGĐ-ST ngày 25/09/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 127/2020/HNGĐ-ST NGÀY 25/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 24 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 409/2020/TLST – HNGĐ ngày 15/7/2020 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 260/2020/QĐXXST – HNGĐ ngày 06 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 286/2020/QĐST – HNGĐ ngày 03/9/2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Bạch Nguyễn H, sinh năm 1997.

Địa chỉ: Ấp M2, xã H, thành phố X, tỉnh An Giang.

- Bị đơn: Ông Lê Văn P, sinh năm 1996.

Địa chỉ: Ấp L1, xã H, thành phố X, tỉnh An Giang.

(Bà H có đơn xin xét xử vắng mặt; ông P vắng mặt lần thứ 2 không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai cùng ngày 10/7/2020 và tại biên bản không tiến hành hòa giải được, nguyên đơn là bà Bạch Nguyễn H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà H và ông P do quen biết sau đó tự nguyện tiến tới hôn nhân vào năm 2017, có đăng ký kết hôn ngày 04/12/2017 tại Ủy ban nhân dân xã H, thành phố X, tỉnh An Giang. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng cuối năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do ông P không quan tâm chăm sóc gia đình và đánh đập bà. Bà đã nhiều lần khuyên ngăn nhưng ông P không sửa đổi. Do đó, bà H bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống cho đến nay. Trong quá trình tòa án giải quyết vụ án, ông P cũng không đến tìm bà để vợ chồng hàn gắn đoàn tụ gia đình. Nay bà H nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nếu tiếp tục chung sống cũng không hạnh phúc nên bà yêu cầu được ly hôn với ông P.

Về quan hệ con chung: Bà H và ông P có 01 (một) con chung tên Lê Hồng B, sinh ngày 06/10/2017, hiện nay con chung đang sống với ông P. Thời gian qua bà H thấy ông P chăm sóc con tốt nên bà đồng ý để ông P tiếp tục nuôi dưỡng con chung, bà không cấp dưỡng nuôi con.

Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn ông Lê Văn P không nộp cho Tòa án văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của bà H và vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án.

* Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án:

Bà H có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt lý do hiện nay đang đi làm xa, điều kiện đi lại khó khăn. Ông P vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, thành phần Hội đồng xét xử cũng như xác định quan hệ tranh chấp, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng trong vụ án đúng theo qui định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng:

+ Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

+ Bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Về nội dung:

Về hôn nhân: Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Bạch Nguyễn H đối với ông Lê Văn P.

Về con chung: Bà H và ông P có 01 (một) con chung tên Lê Hồng B, sinh ngày 06/10/2017, hiện nay con chung đang sống với ông P. Xét thấy, để đảm bảo ổn định về tinh thần và đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho con chung nên đồng ý để cháu B cho ông P được tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng theo quy định tại Điều 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

xét Về cấp dưỡng nuôi con chung: Đương sự không có yêu cầu nên không xem Về tài sản chung và nợ chung: Tự thỏa thuận. Không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại Phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Tranh chấp giữa bà Bạch Nguyễn H và ông Lê Văn P là tranh chấp về Hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên thụ lý giải quyết.

[1.2] Bà Bạch Nguyễn H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt do phải đi làm ăn xa đi lại khó khăn nên không về dự tòa được. Căn cứ khoản 1 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt bà H.

[1.3] Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt, niêm yết công khai các văn bản tố tụng theo qui định tại Điều 177 và Điều 179 Bộ luật Tố tụng dân sự, đồng thời tiến hành thu thập chứng cứ để xác định tình trạng cư trú của ông Lê Văn P và được Công an xã H, thành phố X cung cấp thông tin: “Ông Lê Văn P, sinh năm 1996; có đăng ký hộ khẩu thường trú tại: Ấp M1, xã H, thành phố X, tỉnh An Giang”. Do đó, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử vắng mặt ông P.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà H và ông P do quen biết sau đó tự nguyện tiến tới hôn nhân vào năm 2017, có đăng ký kết hôn ngày 04/12/2017 tại Ủy ban nhân dân xã H, thành phố X, tỉnh An Giang. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng cuối năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do ông P không quan tâm chăm sóc gia đình và đánh đập bà. Bà đã nhiều lần khuyên ngăn nhưng ông P không sửa đổi. Do đó, bà H bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống cho đến nay. Trong quá trình tòa án giải quyết vụ án, ông P cũng không đến tìm bà để vợ chồng hàn gắn đoàn tụ gia đình. Nay bà H nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nếu tiếp tục chung sống cũng không hạnh phúc nên bà yêu cầu được ly hôn với ông Phụng.

Phía bị đơn được Tòa án nhiều lần tống đạt trực tiếp và niêm yết các văn bản tố tụng tại nơi cư trú của ông P. Tuy nhiên, ông P vẫn không gửi văn bản trình bày ý kiến của mình qua yêu cầu ly hôn của bà H và không đến tham gia hòa giải. Như vậy, ông Phụng đã từ bỏ quyền và nghĩa vụ của bị đơn được quy định tại Điều 70 và Điều 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự và đồng nghĩa với việc ông không còn quan tâm đến mối quan hệ hôn nhân của mình.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cũng động viên bà H và tạo thêm thời gian để vợ chồng bà H ông P có cơ hội để hàn gắn tình cảm. Tuy nhiên, bà H vẫn cương quyết yêu cầu ly hôn vì từ khi vợ chồng ly thân từ năm 2018 đến nay ông P cũng không đến tìm bà để giải quyết mâu thuẫn cũng như không muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng. Từ đó, có thể nhận thấy tình cảm của bà H dành cho chồng không còn, tình trạng mâu thuẫn trong hôn nhân của ông, bà đã trầm trọng. Xét thấy, mục đích hôn nhân giữa bà H và ông P không đạt được, nếu tiếp tục duy trì cuộc hôn nhân này cũng không mang lại hạnh phúc cho cả hai. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu của bà H được ly hôn với ông P.

[2.2] Về con chung: Bà H và ông P có 01 (một) con chung tên Lê Hồng B, sinh ngày 06/10/2017, hiện nay con chung đang sống với ông P, bà H hiện nay đang đi làm ăn xa không có điều kiện chăm sóc con nên bà Lài đồng ý để ông Phụng tiếp tục nuôi dưỡng con chung, bà H không cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, để đảm bảo ổn định về tinh thần và đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho con chung nên Hội đồng xét xử chấp nhận để cháu B cho ông P được tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: Xét thấy, người không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, ông P không có ý kiến đối với yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Ông P và gia đình phải tạo điều kiện thuận lợi cho bà L được thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các con chung. Việc nuôi con không cố định.

[2.3] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và nợ chung. Do bị đơn ông P cũng không có ý kiến về việc phân chia tài sản chung và nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu sau này, các bên phát sinh tranh chấp thì sẽ được giải quyết bằng vụ án khác.

[3] Về án phí : Bà Bạch Nguyễn H phải nộp án phí Hôn nhân sơ thẩm theo qui định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 179; khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228; Điều 238, Điều 273 và khoản 1 Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án và Khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Bạch Nguyễn H. Bà Bạch Nguyễn H được ly hôn với ông Lê Văn P.

- Về con chung: Giao cháu Lê Hồng B, sinh ngày 06/10/2017 cho ông Lê Văn P chăm sóc, nuôi dưỡng. Bà Bạch Nguyễn H không phải cấp dưỡng nuôi con.

Ông P cùng các thành viên trong gia đình của mình phải tạo điều kiện cho bà H thăm nom, chăm sóc và giáo dục các con chung. Việc nuôi con không cố định.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét.

Về án phí Bà Bạch Nguyễn H phải chịu 300.000 đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hôn nhân và gia đình. Do bà H đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0005011 ngày 15/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên, bà H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm nên không phải nộp thêm.

Bà Bạch Nguyễn H và ông Lê Văn P được quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 127/2020/HNGĐ-ST ngày 25/09/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:127/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:25/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về