Bản án 127/2020/HNGĐ-ST ngày 24/06/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 127/2020/HNGĐ-ST NGÀY 24/06/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 24 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 221/2020/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 02 năm 2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 188/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 6 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Võ Minh T, sinh năm 1998. (có mặt) Địa chỉ: Ấp X, xã Y, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

Bị đơn: Trần Hồng T, sinh năm 2000. (có mặt) Địa chỉ: Ấp C, xã Đ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1/ Võ Văn T, sinh năm 1975. (có mặt)

2/ Đỗ Thị H, sinh năm 1978. (có mặt) Cùng địa chỉ: Ấp X, xã Y, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 27 tháng 02 năm 2020 và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn ông Võ Minh T trình bày: Ông và bà Trần Hồng T cưới nhau vào tháng 01 năm 2020, không đăng ký kết hôn. Ông và bà T chung sống với nhau được 01 tháng, đến ngày 05/02/2020, bà T tự ý bỏ về nhà cha mẹ ruột ở cho đến nay, tình nghĩa vợ chồng đã rạn nứt khó mong hàn gắn nên xin ly hôn với bà T.

Về con chung: Không có.

Về tài sản chung: Có 01 cây vàng cưới 9999, do cha mẹ ông cho vợ chồng, gồm bông tay 01 chỉ, sợi dây chuyền 5 chỉ, hai vòng tay 4 chỉ, khi ly hôn ông yêu cầu chia đôi tài sản.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn bà Trần Hồng T trình bày: Bà thống nhất với lời trình bày của ông T về điều kiện kết hôn, thời gian chung sống, do vợ chồng mâu thuẫn với nhau về tình cảm nên bà bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống từ ngày 05/02/2020 đến nay. Nay, ông T xin ly hôn thì bà đồng ý.

Về con chung: Không có.

Về tài sản: Có 01 cây vàng cưới 9999, hiện bà đang giữ gồm bông tay 01 chỉ, sợi dây chuyền 5 chỉ, hai vòng tay 4 chỉ, khi ly hôn bà không đồng chia đôi tài sản vì lúc cưới cha mẹ chồng nói cho riêng bà.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Võ Văn T, bà Đỗ Thị H trình bày: Vợ chồng ông bà có cưới vợ cho con ruột là ông T. Vào ngày cưới, ông bà có cho chung con và con dâu 01 cây vàng 9999, gồm bông tay 01 chỉ, sợi dây chuyền 5 chỉ, hai vòng tay 4 chỉ, để ông T, bà T có vốn làm ăn, chứ không phải cho riêng con dâu. Nay, ông T, bà T ly hôn ông bà không có yêu cầu gì đối với số vàng đã cho, tùy hai con quyết định.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý, các văn bản tố tụng cần thiết, đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải đoàn tụ không thành nên đưa vụ án ra xét xử.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Ông T khởi kiện yêu cầu được ly hôn với bà Trần Hồng T, có hộ khẩu thường trú tại ấp C, xã Đ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An và hiện đang có mặt tại địa phương nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Ông T và bà T chung sống với nhau vào tháng 01 năm 2020 nhưng đến nay không có đăng ký kết hôn nên hôn nhân của ông T và bà T không được xem là hôn nhân hợp pháp, đã vi phạm vào Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]. Trong quá trình chung sống, ông T, bà T phát sinh mâu thuẫn nên sống ly thân từ ngày 05/02/2020 cho đến nay. Ông T cho rằng bà T tự ý bỏ về nhà cha mẹ ruột ở, tình nghĩa vợ chồng đã rạn nứt khó mong hàn gắn nên xin ly hôn với bà T. Ngược lại bà T cho rằng do vợ chồng mâu thuẫn với nhau về tình cảm nên bà bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống từ ngày 05/02/2020 cho đến nay. Nay, ông T xin ly hôn thì bà đồng ý, do ông T và bà T chung sống với nhau không có đăng ký kết hôn nên Hội đồng xét xử không công nhận ông Võ Minh T và bà Trần Hồng T là vợ chồng.

[4]. Về con chung: Ông T và bà T đều xác nhận không có con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về cấp dưỡng: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về nợ chung: Ông T, bà T trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về tài sản: Ông T, bà T đều thừa nhận, hiện bà T đang giữ 01 cây vàng cưới 9999, gồm bông tay 01 chỉ, sợi dây chuyền 5 chỉ, hai vòng tay 4 chỉ, đây là tình tiết, sự kiện không cần phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Ông T cho rằng cha mẹ ông cho chung vợ chồng nên yêu cầu chia đôi tài sản chung. Bà T không đồng chia đôi tài sản vì lúc cưới cha mẹ chồng nói cho riêng bà. Xét thấy bà T không có chứng cứ chứng minh cha mẹ chồng cho riêng bà nên 01 cây vàng 9999 là tài sản chung của của ông T và bà T, do đó căn cứ Điều 16, khoản 3 Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điều 219 Bộ luật Dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T về việc chia tài sản chung của ông T và bà T, buộc bà T có trách nhiệm hoàn trả cho ông T 5 chỉ vàng 9999.

[8]. Về án phí: Ông Tuấn phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Ông T, bà T phải chịu án phí chia tài sản chung theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 9, Điều 14, Điều 16, khoản 3 Điều 33, Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 219 Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Võ Minh T đối với bà Trần Hồng T về việc “Ly hôn”.

- Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận ông Võ Minh T và bà Trần Hồng T là vợ chồng.

2. Về tài sản chung: Ông T, bà T mỗi người được sở hữu 5 chỉ vàng 9999, số vàng trên hiện bà T đang giữ nên cần buộc bà T có trách nhiệm hoàn trả cho ông T 5 chỉ vàng 9999, khi án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong nếu bên phải thi hành án không trả số tiền trên thì hàng tháng còn phải chịu thêm khoản tiền lãi theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Về án phí sơ thẩm: Ông T phải chịu 1.500.000 đồng án phí hôn nhân gia đình và án phí chia tài sản nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0004804 ngày 27/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hoà, tỉnh Long An sang án phí để thi hành. Ông T còn phải nộp tiếp 1.200.000 đồng; buộc bà T phải chịu 1.200.000 đồng sung vào ngân sách nhà nước.

4. Án xử sơ thẩm và tuyên án công khai, các đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 127/2020/HNGĐ-ST ngày 24/06/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:127/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:24/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về