TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 127/2017/HS-ST NGÀY 25/10/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 25/10/2017, tại Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom xét xử công khai, sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 124/2017/TLST-HS ngày 04 tháng 10 năm 2017, đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Đạt T (tên gọi khác: T), sinh năm 1987. HKTT: ấp T, xã Đồi 61, huyện T, tỉnh Đồng Nai.
Chổ ở: Không xác định. Trình độ học vấn: 6/12. Nghề nghiệp: không.
Cha bị cáo: không; Mẹ bị cáo bà Nguyễn Thị H, sinh năm: 1957
Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ 02 trong gia đình.
Có vợ là: Đỗ Hồng M, sinh năm 1995.
Có con là: Nguyễn Hoàng H, sinh năm 2014
Tiền sự: không .
Tiền án: Ngày 20/9/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai xử phạt 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/02/2017.
Nhân thân:
+ Ngày 09/3/2004, bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành án tại trại giam Cây Cầy, tỉnh Tây Ninh.
+ Ngày 06/8/2008, bị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt 04 năm tù về tội “Phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 21/3/2011.
+ Ngày 26/10/2011, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai ra Quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh (cai nghiện) bắt buộc, đến ngày 26/10/2013 chấp hành xong.
Bị giam giữ từ ngày: 24 tháng 7 năm 2017 tại nhà tạm giữ Công an huyện Trảng Bom. (Có mặt).
Người bị hại:
1/ Anh Vương Viết S, sinh năm 1988
Địa chỉ: ấp T, xã Đồi 61, huyện T, tỉnh Đồng Nai.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2/ Anh Phạm Nguyễn Phi C, sinh năm 1989
Địa chỉ: ấp T, xã Đồi 61, huyện T, tỉnh Đồng Nai.
NHẬN THẤY
Bị cáo Nguyễn Đạt T (T) bị Viện Kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom truy tố về hành vi phạm tội như sau: Vào khoảng 11 giờ ngày 11/7/2017, Nguyễn Đạt T (có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích) điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda biển số 54X8-7485 đi đến khu vực dãy nhà trọ thuộc ấp T, xã Đồi 61, huyện T, tỉnh Đồng Nai đề trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu sài. Khi đến trước cổng dãy nhà trọ, Tài để xe mô tô bên ngoài và đi bộ vào trong để tìm tài sản trộm cắp, Tài đi đến phòng trọ số 03 do anh Vương Viết S thuê, lúc này anh S đang nằm ngủ nhưng không đóng cửa phòng. T lén lút đẩy cửa đi vào lấy trộm 01 điện thoại di động nhãn hiệu HTC màu đen (2 sim, 2 sóng) và số tiền 1.500.000đồng anh Sơn để trên đầu gường ngủ. Sau khi lấy trộm được tài sản, T đem chiếc điện thoại đến bán cho anh Phạm Nguyễn Phi C ở ấp T, xã Đồi 61, huyện T, tỉnh Đồng Nai được 430.000đồng, số tiền trộm cắp T đã tiêu xài cá nhân hết. Sau khi bị mất trộm tài sản, anh Vương Viết S đã làm đơn trình báo Công an huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai. Đến ngày 23/7/2017, Nguyễn Đạt T bị Công an huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai mời làm việc, T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình.
Vật chứng thu giữ: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda biển số 54X8-7485; anh Phạm Nguyễn Phi C đã giao nộp 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu HTC màu đen 2 sim 2 sóng.
Theo biên bản định giá của Hội đồng định giá tài sản huyện Trảng Bom ngày 31/7/2017 kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu HTC màu đen (2 sim 2 sóng) IMEI: 359116062003471, 359116062003478 đã qua sử dụng trị giá 1.500.000đ.
Ngày 20/9/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho Vương Viết S: 01 điện thoại di động nhãn hiệu HTC màu đen (2 sim 2 sóng) IMEI: 359116062003471, 359116062003478 đã qua sử dụng, anh Sơn yêu cầu bị cáo Nguyễn Đạt T phải trả lại số tiền 1.500.000đồng. Anh Phạm Nguyễn Phi C yêu cầu bị cáo Tài trả lại số tiền 430.000đồng.
Tại bản cáo trạng số: 135/CT/VKS-HS ngày 04/10/2017, VKSND huyện Trảng Bom truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Trảng Bom để xét xử bị cáo Nguyễn Đạt T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Đạt T từ 12 tháng đến 15 tháng tù.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên, cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,
XÉT THẤY
Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận: Vào 11 giờ 00 ngày 11/7/2017 tại dãy nhà trọ thuộc ấp T, xã Đồi 61, huyện T, tỉnh Đồng Nai, Nguyễn Đạt T đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động nhãn hiệu HTC màu đen (2 sim 2 sóng) giá trị là 1.500.000đ và số tiền 1.500.000đ của anh Vương Viết S. Tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là 3.000.000đ. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Đạt T đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự.
Hành vi phạm tội của Nguyễn Đạt T là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của anh Vương Viết S được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo có nhân thân xấu, có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai xét xử chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội. Đây là tình tiết tăng nặng “tái phạm” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự. Do vậy cần áp dụng hình phạt nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đối với hành vi của Phạm Nguyễn Phi C đã mua chiếc điện thoại di động do Nguyễn Đạt T trộm cắp của anh Sơn, khi mua C không biết đấy là tài sản do trộm cắp, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai không xử lý.
Trách nhiệm dân sự: Số tiền 1.500.000đ không thu hồi được anh Vương Viết S yêu cầu bị cáo phải trả lại. Anh Phạm Nguyễn Phi C yêu cầu bị cáo trả lại 430.000 đồng anh đã bỏ tiền ra mua điện thoại bị cáo trộm cắp được. Do đó, bị cáo Nguyễn Đạt T phải có nghĩa vụ bồi thường cho anh Vương Viết S sồ tiền 1.500.000 và bồi thường cho anh Phạm Nguyễn Phi C số tiền 430.000 đồng.
Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã trả lại cho anh Vương Viết S 01 điện thoại di động hiệu HTC màu đen là phù hợp với quy định pháp luật.
Đối với chiếc xe mô tô biển số 54X8 – 7485 bị cáo Tài sử dụng làm phương tiện phạm tội, do chưa xác định được nguồn gốc và chủ sở hữu nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai tách ra xử lý sau.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đạt T (tên gọi khác: K) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g khoản 1 Điều 48, điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Đạt T 12 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24 tháng 7 năm 2017.
2. Về dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 42 Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.
Buộc bị cáo Nguyễn Đạt T phải trả lại cho cho anh Vương Viết S số tiền 1.500.000đ và anh Phạm Nguyễn Phi C số tiền 430.000 đồng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, người phải thi hành án chưa thi hành án thì còn phải chịu lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015.
2. Về án phí: Áp dụng Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1, khoản 3 Điều 21, điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
3. Bị cáo, anh Phạm Nguyễn Phi C có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Anh Vương Viết S có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
4. Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 127/2017/HS-ST ngày 25/10/2017 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 127/2017/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/10/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về