Bản án 126/2019/HSST ngày 10/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 126/2019/HSST NGÀY 10/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuận Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 128/2019/TLST-HS ngày 18 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 124/2019/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Lò Văn Q; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1976, tại huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản N, xã CP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: 01/10; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Lò Văn Y, sinh năm 1958 và bà Lò Thị K, (Đã chết); vợ là Bạc Thị P, sinh năm 1983 và có 02 con; tiền án: Không, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam kể từ ngày 25-6-2019 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13 giờ 00 phút ngày 25-6-2019, tổ công tác Đội hình sự Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực bản T, xã CP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La phát hiện bắt quả tang Lò Văn Q; trú tại: Bản N, xã CP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 (Một) gói nilon màu xanh bên trong có chứa một ít chất bột cục màu trắng nghi là Heroine (Lò Văn Q khai là Heroine), có khối lượng 0,20 gam, ký hiệu Q1. Và 01 (Một) mảnh viên nén màu hồng nghi là ma túy tổng hợp (Lò Văn Q khai nhận là ma túy tổng hợp), có khối lượng 0,04 gam, ký hiệu Q2. Rút toàn bộ 0,20 gam chất bột màu trắng ký hiệu Q1 và toàn bộ 0,04 gam mảnh viên nén màu hồng ký hiệu Q2 làm mẫu vật gửi giám định chất ma túy.

Bản Kết luận giám định số: 1179, ngày 27-6-2019 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “ Mẫu gửi giám định ký hiệu Q1 là chất ma túy, loại chất Heroine. Tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,20gam. Mẫu gửi giám định ký hiệu Q2 là chất ma túy, loại chất Methamphetamine. Tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,04gam. Khối lượng chất ma túy tạm giữ là 0,20gam Heroine và 0,04 gam Methamphetamine”. (Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định).

Tại cơ quan điều tra bị cáo Lò Văn Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 25-6-2019, Lò Văn Q đón xe buýt từ xã CP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La lên xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La mục đích tìm mua ma túy để sử dụng. Khi đến ngã ba đường rẽ từ Quốc lộ 6A vào Bản T, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La Q xuống xe đi bộ vào bản T thì gặp và mua của một người đàn ông dân tộc Thái (Q không biết tên và địa chỉ cư trú) được 01 (một) gói nilon màu xanh bên trong có chứa một ít Heroine và một mảnh viên ma túy tổng hợp với giá 50.000đ. Sau đó, Q cầm gói ma túy vừa mua được ở tay trái rồi đi bộ ra Quốc lộ 6A đón xe buýt về nhà. Khi xe buýt đến bản T, xã CP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Lò Văn Q xuống xe đi bộ được khoảng 50 mét thì thì gặp tổ công tác Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La yêu cầu kiểm tra ma túy. Quá trình kiểm tra phát hiện và bắt quả tang Lò Văn Q có hành vi: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ vật chứng như đã nêu.

Tại bản cáo trạng số: 128/CT-VKS ngày 18-9-2019, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu đã truy tố bị cáo Lò Văn Q về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Lò Văn Q về điều, khoản và tội danh trên.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Lò Văn Q phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Lò Văn Q mức án từ 18 tháng đến 22 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Lò Văn Q.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự: Tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 (một) mảnh nilon màu xanh + 01 (một) vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu. Các vật chứng trên được niêm phong trong cùng một phong bì thư có viền xanh đỏ.

Bị cáo Lò Văn Q phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định.

Ý kiến của bị cáo Lò Văn Q: Nhất trí như lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về nhà với gia đình và xã hội

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều là hợp pháp.

[2] Về nội dung: Ngày 25-6-2019, Lò Văn Q; trú tại: Bản N, xã CP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La có hành vi tàng trữ trái phép 0,20 gam Heroine và 0,04 gam Methamphetamine. Tổng khối lượng hai chất ma túy bị cáo tàng trữ là 0,24 gam. Mục đích để sử dụng cho bản thân.

Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo Lò Văn Q tại phiên tòa ngày hôm nay, hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, Biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu khác có trong hồ sơ. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Trên cơ sở đó có đầy đủ điều kiện, đủ căn cứ kết luận bị cáo Lò Văn Q phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Như quyết định truy tố và quan điểm luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La tại phiên tòa là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định :

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a)……….

c) Heroine, cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

...............................

i) Có 2 chất ma túy chở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ b đến h khoản này.” 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Lò Văn Q, tàng trữ trái phép chất ma tuý với khối lượng không lớn, mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, làm lây lan phát sinh các tệ nạn ma tuý và những tệ nạn xã hội khác. Là hành vi nguy hiểm cho xã hội gây mất trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Cần vận dụng điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự có mức án phạt tù từ 01 năm đến 05 năm đối với bị cáo Lò Văn Q.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo Lò Văn Q thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự.

Song nhân thân bị cáo đã có một tiền án tuy đã được đương nhiên xóa án tích nhưng vẫn bị coi là nhân thân xấu. Bị cáo là người nghiện ma túy, nhận thức rõ tác hại của ma tuý nhưng do coi thường pháp luật nên cố tình phạm tội nghiêm trọng. Nay xét thấy cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người làm ăn lương thiện có ích cho xã hội. Cần lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới đảm bảo tính chất nghiêm minh của pháp luật, giáo dục và phòng ngừa chung. Nhất là công tác phòng chống tội phạm và tội phạm ma tuý trong giai đoạn hiện nay.

Bị cáo Lò Văn Q đang bị tạm giam, nay Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo trong hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án. Vận dụng khoản 1, khoản 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.

Ngoài hình phạt chính là phạt tù bị cáo Lò Văn Q còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự. Xét thấy bị cáo không có tài sản riêng, không có đủ điều kiện và khả năng thi hành hình phạt bổ sung. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về nguồn gốc số ma túy bị cáo Lò Văn Q khai mua của một người đàn ông dân tộc Thái ( Lò Văn Q không biết tên và địa chỉ cụ thể ở đâu) tại bản T, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La vào ngày 25-6-2019 với giá 50.000 đ, ngoài lời khai của bị cáo không còn chứng cứ nào khác chứng minh. Do vậy Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La không có căn cứ để điều tra, xử lý.

[3] Vật chứng vụ án: Đối với Một phong bì có viền xanh đỏ, ngoài ghi: “Vật chứng nhập kho vụ Lò Văn Q – Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 25- 6-2019. Một mảnh nilon màu xanh + một vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu”, mặt sau phong bì có đầy đủ chữ ký, họ tên các thành phần tham gia niêm phong và hai hình dấu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu.

Xét không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy. Vận dụng Điều 47 Bộ Luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[4]. Về án phí: Bị cáo Lò Văn Q phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Vận dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14; Ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[5]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lò Văn Q phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lò Văn Q 20 ( hai mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25-6-2019 (là ngày bắt giam giữ đối với bị cáo).

3. Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tuyên tịch thu tiêu hủy Một phong bì có viền xanh đỏ, ngoài ghi: “Vật chứng nhập kho vụ Lò Văn Q – Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 25-6-2019. Một mảnh nilon màu xanh + một vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu”, mặt sau phong bì có đầy đủ chữ ký, họ tên các thành phần tham gia niêm phong và hai hình dấu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu.

4.Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14; Ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Lò Văn Q phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo Lò Văn Q được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 126/2019/HSST ngày 10/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:126/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về