Bản án 126/2018/HNGĐ-ST ngày 29/11/2018 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG HỒ, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 126/2018/HNGĐ-ST NGÀY 29/11/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Trong ngày 29 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện LongHồ xét xử công khai sơ thẩm vụ án Hôn nhân & Gia đình sơ thẩm thụ lý số: 407/ 2018/ TLST- HNGĐ ngày 14 tháng 9 năm 2018, về việc “ Tranh chấp ly hôn và nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 256/2018/QĐXXST-HNGĐ, ngày 24 tháng 10 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 201/2018/QĐST- HNGĐ, ngày 12 tháng 11 năm 2018, giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm: 1984.

Địa chỉ: Số 134A/9, ấp T 2, xã P, huyện H, tỉnh L.

2.Bị đơn: Chị Trần Thị T, sinh năm: 1983 ( Vắng mặt). Địa chỉ: Số 134A/9, ấp T 2, xã P, huyện H, tỉnh L.

NỘI DUNG VỤ ÁN

-Theo đơn khởi kiện ngày 12/9/2018 và trong quá trình tham gia tố tụng nguyên đơn anh Nguyễn Văn T trình bày:

Vào năm 2003 qua quen biết anh và chị T tự nguyện tiến đến hôn nhân, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán và được Ủy ban nhân dân xã P, huyện H, tỉnh L cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 22/4/2004. Sau khi cưới anh chị sống chung với gia đình của cha mẹ anh khoảng 01 năm rồi vợ chồng ra sống riêng. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc, đến năm 2015 phát sinh mâu thuẩn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, vợ chồng thường xuyên cải vả về chuyện tiền bạc, từ đó mâu thuẩn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Năm 2015 chị T bỏ nhà đi làm, anh và chị ly thân từ năm 2016 cho đến nay, anh đã khởi kiện ly hôn 01 lần, nhưng do bận đi làm ăn xa nên anh rút đơn khởi kiện. Nay tình cảm vợ chồng không còn, anh yêu cầu được ly hôn với chị T.

Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Ngọc N, sinh ngày 20/11/2003 và Nguyễn Hoàng Nhật A, sinh ngày 08/4/2013, hiện đang chung sống với anh T. Khi ly hôn anh yêu cầu tiếp tục được nuôi 02 con.

Về cấp dưỡng nuôi con: Không yêu cầu giải quyết. Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: Anh cam kết không có thiếu nợ ai trong thời kỳ hôn nhân, nếu có anh cam kết trả nợ theo quy định của pháp luật.

-Bị đơn chị Trần Thị T vắng mặt trong các phiên hòa giải và phiên họp về kiểm tra việc giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ, không có bản khai ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của anh T.

-Cháu Nguyễn Ngọc N trình bày: Cháu là con ruột của anh T và chị T. Khi cha mẹ ly hôn nguyện vọng của cháu là được tiếp tục ở với cha.

-Tại phiên tòa anh T trình bày: Anh T vẫn bảo lưu yêu cầu khởi kiện, yêu cầu được ly hôn với chị T, yêu cầu tiếp tục được nuôi 02 con, về cấp dưỡng nuôi con, về tài sản chung, về nợ chung: anh không yêu cầu giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1]. Về thủ tục tố tụng: Chị T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị T.

 [2]. Xét về quan hệ hôn nhân: Anh T và chị T tiến đến hôn nhân trên cơ sở tự nguyện được Ủy ban nhân dân xã P, huyện H, tỉnh L cấp giấy chứng nhận kết hôn số 43 ngày 22 tháng 4 năm 2004. Do đó hôn nhân của anh T và chị T là hôn nhân hợp pháp được quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

 [3]. Xét yêu cầu ly hôn của nguyên đơn: Trong thời gian chung sống tình cảm của anh chị có những bất đồng không giải quyết được, mâu thuẩn ngày càng trầm trọng nên chị T đã bỏ nhà đi làm và sống ly thân với anh T từ năm 2016 cho đến nay. Anh T cho rằng không còn tình cảm với chị T, hôn nhân của anh chị không thể hàn gắn được nữa.

Xét, hôn nhân phải trên cơ sở tự nguyện. Mục đích hôn nhân là đem lại hạnh phúc cho nhau, cùng nhau chung sống, quan tâm chăm sóc, giúp đỡ, vun vén cho hạnh phúc gia đình. Nhưng mâu thuẩn của anh T và chị T đã đến mức trầm trọng không thể khắc phục, mục đích hôn nhân không đạt được. Tại phiên tòa anh T vẫn bảo lưu ý kiến là được ly hôn với chị T. Cho thấy việc anh T yêu cầu ly hôn với chị T là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân & Gia đình năm 2014.

Đới với chị T đã được Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, nhưng chị T vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án và không có bản khai ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Xem như chị T không có ý định được đoàn tụ và đồng ý với yêu cầu ly hôn của anh T.

 [4]. Về con chung: Anh T yêu cầu được nuôi 02 con chung là cháu N và cháu A. Trong quá trình giải quyết ý kiến của cháu N có nguyện vọng được ở với anh T. Chị T không có ý kiến về yêu cầu nuôi con của anh T. Do đó nên tiếp tục giao 02 cháu N và A cho anh T được tiếp tục nuôi dưỡng.

 [5]. Về cấp dưỡng nuôi con: Các đương sự không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [6]. Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [7]. Về nợ chung: Các đương sự không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [8]. Về án phí: Buộc anh T phải nộp toàn bộ tiền án phí Hôn nhân & Gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; 

Căn cứ Điều 9 Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;Căn cứ Điều 3, Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử : Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho anh Nguyễn Văn T được ly hôn với chị TrầnThị T.

2. Về con chung: Giao 02 cháu Nguyễn Ngọc N, sinh ngày 20/11/2003 và Nguyễn Hoàng Nhật A, sinh ngày 08/4/2013 cho anh Nguyễn Văn T tiếp tục nuôi dưỡng. Chị T có quyền tới lui thăm nom và chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Các đương sự không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

5. Về nợ chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

6. Về án phí: Buộc anh Nguyễn Văn T nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí Hôn nhân & Gia đình sơ thẩm. Anh T đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo lai thu số 0001822 ngày 14/9/2018 tại chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Hồ nên được khấu trừ.

7. Quyền kháng cáo: Án xử có mặt nguyên đơn, bị đơn vắng mặt, báo cho đương sự biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc bản án được niêm yết công khai tại nơi cư trú.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

259
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 126/2018/HNGĐ-ST ngày 29/11/2018 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:126/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Hồ - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về