Bản án 126/2017/HSPT ngày 30/11/2017 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 126/2017/HSPT NGÀY 30/11/2017 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Trong ngày 30/11/2017 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 161/2017/HSPT ngày 11/10/2017 đối với bị cáo Trần Hoa V do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 56/2017/HSST ngày 29/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang.

* Bị cáo có kháng cáo :

Họ và tên: Trần Hoa V, tên gọi khác: Không có; sinh năm 1985 tại thị trấn C, huyện L, tỉnh Bắc Giang; nơi ĐKHKTT: khu Q, thị trấn C, huyện L, tỉnh Bắc Giang; số chứng minh nhân dân: 121763***; nghề nghiệp: tự do; trình độ văn hoá:9/12.; dân tộc: Kinh; Con ông Trần Quốc V, sinh năm 1950 và con bà Lê Thị L, sinh năm 1958; có vợ là Vi Thị T, sinh năm 1991 và  có 01 con, sinh năm 2013; Tiền sự: không; Tiền án: Bản án số 253/2013/HSPT ngày 12/11/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh B xử phạt Trần Hoa V 09 tháng tù về tội “Đánh bạc”. Bị cáo bị bắt quả tang, bị tạm giữ từ ngày 21/6/2017 đến ngày 27/6/2017, được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, hiện đang tại ngoại tại địa phương; có mặt.

* Người tham gia tố tụng khác: Vụ án còn có 03 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không liên quan đến kháng cáo, không bị kháng cáo, không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản cáo trạng số 60/KSĐT ngày 10/8/2017 của VKSND huyện L và bản án hình sự sơ thẩm số 56/2017/HSST ngày 29/8/2017 của TAND huyện L, tỉnh Bắc Giang thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 17 giờ 45 phút ngày 21/6/2017 tổ công tác Đội Cảnh sát hình sự Công an huyện L đã phát hiện và bắt quả tang bị cáo Trần Hoa V đang có hành vi đánh bạc bằng hình thức ghi số lô, số đề cho đối tượng khai là Hoàng Văn T, sinh năm 1989 trú tại thôn B, xã B, huyện L, tỉnh Bắc Giang và Trịnh Văn Q, sinh năm 1989 trú tại thôn L, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang tại vỉa hè trước cửa nhà ông Trần Văn T; trú tại khu Lê Hồng P, thị trấn C, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Tang vật thu giữ gồm: 01 tờ giấy một mặt trắng, một mặt in chữ “Soạn TA gửi 5055…” trên tờ giấy có ghi “Ngày 21 tháng 6”, chữ “C”, “55/50” bằng mực bút bi màu xanh; 01 tờ giấy một mặt trắng, một mặt in chữ “Soạn TA gửi 5055…” trên tờ giấy có ghi “Ngày 21 tháng 6” chữ “C”, số “67, 76, 18, 81, 89, 98, 08, 80” bằng mực bút bi màu xanh; Số tiền 12.020.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Apple, loại Iphone6 Plus, màu vàng, số Imei: 35329907070502; 01 bút bi mực xanh nhãn hiệu Thiên Long;01 quyển kê các con số bìa màu hồng gồm 68 tờ có in chữ “Soạn TA gửi 5055…” trong đó có 06 tờ đã ghi các con số, bên trong quyển kê có kẹp 01 tờ giấy than màu đen; 01 quyển sổ bìa cứng màu tím than ở bìa có chữ Agenda, Book B8-240, bên trong bìa có ghi chữ “Ghi chú cá nhân” trên đó có ghi tên Trần Hoa V, địa chỉ khu Q, thị trấn C; 19 tờ bảng kê số dự thưởng xổ số lô tô, bên trái có dấu treo mực đen của Công ty TNHH một thành viên xổ số kiến thiết Bắc Giang, trong đó có 01 tờ ghi các con số 85, 86, 100, 00, 50; 01 bàn nhựa màu vàng; 01 ghế tựa nhựa màu trắng đục; 01 ghế tựa nhựa màu tím. Bị cáo khai nhận có vợ là chị Vi Thị T có hợp đồng là đại lý bán vé xổ số cho công ty xổ số kiến thiết Bắc Giang vào ngày30/8/2016. Hàng ngày chị T vẫn thường bán vé xổ số tại khu vực vỉa hè trước cửa nhà ông Trần Văn T ở khu Lê Hồng P, thị trấn C, huyện L. Thỉnh thoảng chị T bận thì V có đi bán vé số thay cho chị T. Trong quá trình đi bán vé số thay cho vợ, V đã nảy sinh ý định ghi số lô, số đề cho khách để tăng thêm thu nhập. Để thực hiện việc ghi số lô, số đề trái phép, V mua 01 quyển kê gồm các tờ cáp là tờ giấy một mặt trắng, một mặt có in chữ “Soạn TA gửi 5055…”, bút và giấy than nhằm mục đích ghi cáp đưa cho người chơi khi đến ghi số lô, số đề. Trên các tờ cáp ghi cho ngườichơi V sử dụng các ký hiệu “X” là đánh lô xiên; “C” là đánh lô; “A” là đánh giải đặc biệt; “2C” là đánh hai cửa; “B” là đánh nhất to. Người chơi có thể lựa chọn cách đánh như đánh giải đặc biệt, giải nhất to, hai cửa, lô, cặp xiên, ba càng...Đánh giải đặc biệt là người chơi chọn ghi số có 2 chữ số bất kỳ rồi so sánh với 2 số cuối giải đặc biệt của kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc cùng ngày, nếu trùng thì người chơi trúng giải. Người chơi sẽ nhận được số tiền gấp 70 lần số tiền đã bỏ ra. Đánh nhất to là người chơi chọn ghi số có 2 chữ số bất kỳ rồi so sánh với 2 số cuối giải nhất của kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc cùng ngày, nếu trùng thì người chơi trúng giải. Người chơi sẽ nhận được số tiền gấp 70 lần số tiền đã bỏ ra. Đánh hai cửa là đánh cả giải đặc biệt và nhất to, nếu trúng thưởng người chơi cũng nhận được số tiền gấp 70 lần số tiền đã bỏ ra. Đánh lô là người chơi chọn ghi số có 2 chữ số bất kỳ rồi so sánh với 2 số cuối trong tất cả các giải của kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc cùng ngày, mỗi điểm lô được tính bằng 23.000 đồng. Nếu trùng với bất kỳ giải nào thì người chơi trúng giải, mỗi điểm khi trúng giải người chơi sẽ nhận được số tiền 80.000 đồng. Nếu số người chơi ghi trùng với 2 giải thì số tiền thưởng sẽ được nhân lên gấp đôi. Đánh xiên 2, xiên 3, xiên 4 là người chơi ghi cặp số gồm2, 3 hoặc 4 số có 2 chữ số bất kỳ. Nếu tất cả các số trong cặp số đã ghi trùng với 2 số cuối của một trong các giải của kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc cùng ngày thì người chơi trúng giải. Số tiền trúng giải xiên 2, xiên 3, xiên 4 lần lượt là gấp 10 lần,40 lần và 100 lần số tiền đã bỏ ra. Đánh ba càng là người chơi chọn số có 3 chữ số bất kỳ rồi so sánh với 3 số cuối giải đặc biệt của kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc cùng ngày, nếu trùng thì người chơi trúng giải. Người chơi sẽ nhận được số tiền gấp 400 lần số tiền đã bỏ ra. Hàng ngày, sau khi ghi được các số lô, số đề nếu ghi được ít thì V giữ lại để ôm, còn nếu được nhiều V tổng hợp rồi đem trực tiếp chuyển cho Vũ Thanh T, sinh năm 1990 trú tại khu Q, thị trấn C, huyện L, tỉnh Bắc Giang để hưởng phần trăm chênh lệch. Tỷ lệ hưởng chênh lệch là 1% đối với số lô và 10% đối với số đề. Khoảng 17 giờ ngày 21/6/2017, Trần Hoa V đang ngồi bán số lô, số đề trước cửa nhà ông Trần Văn T thì có Hoàng Văn T đến bảo V ghi cho số lô 55 là 50 điểm. V đồng ý và ghi số vào tờ cáp là tờ giấy một mặt trắng, một mặt in chữ “Soạn TA gửi 5055…” rồi đưa tờ cáp cho T. T cầm tờ cáp rồi trả cho V số tiền 1.150.000 đồng. Cũng vừa lúc này có Trịnh Văn Q đi bộ đến bảo V ghi cho các con số: 67, 76, 18, 81, 89, 98, 08, 80 mỗi con 20 điểm. V ghi số vào tờ cáp là tờ giấy một mặt trắng, một mặt in chữ “Soạn TA gửi 5055…”, hết tổng số tiền là3.680.000 đồng. Q lấy tiền trả cho V, V nhận tiền rồi đưa tờ cáp cho Q. Khi Q vừa cất cáp vào túi thì bị tổ công tác Công an huyện L bắt quả tang. Ngoài việc ghi số lô, số đề cho T và Q đã bị bắt quả tang nêu trên, trong ngày 21/6/2017  V còn ghi số lô, số đề cho 04 người khách không rõ họ tên, địa chỉ với số tiền là 1.025.000đồng. Tổng số tiền Trần Hoa V ghi số lô, số đề cho khách trong ngày 21/6/2017 là5.855.000 đồng. Ngày 03/7/2017 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L ra quyết định trưng cầu giám định đối chữ viết trên 08 tờ giấy một mặt trắng, một mặt in chữ “Soạn TA gửi 5055…” có các chữ số cần giám định ký hiệu từ A1 đến A8 so với chữ viết, chữ số của Trần Hoa V trên các tài liệu mẫu ký hiệu từ M1 đến M6 có phải do cùng một người viết ra hay không. Tại bản Kết luận số 1119/KL-PC54 ngày 17/7/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận: Chữ viết, chữ số trên tài liệu cần giám định ký hiệu từ A1 đến A8 so với chữ viết, chữ số của Trần Hoa V trên các tài liệu mẫu ký hiệu từ M1 đến M6 là của cùng một người.

Tại bản cáo trạng số số 60/KSĐT ngày 10/8/2017 của Viện kiểm sát nhândân huyện L đã truy tố bị cáo Trần Hoa V, về tội "Đánh bạc” quy định tại khoản 1,Điều 248 Bộ luật hình sự

Bản án hình sự sơ thẩm số 56/2017/HSST ngày 29/8/2017 của TAND huyệnL, tỉnh Bắc Giang đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Trần Hoa V phạm tội “Đánh bạc”

Áp dụng khoản 1, khoản 3, Điều 248; Điều 33; điểm p, khoản 1, Điều 46; điểm g, khoản 1, Điều 48- Bộ luật Hình sự, Xử phạt bị cáo Trần Hoa V 09 (chín) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ thời gian bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/6/2017 đến ngày 27/6/2017.

Phạt bổ sung bằng tiền 3.000.000 đồng (ba triệu đồng) sung quỹ nhà nước. Ngoài ra bản án còn tuyên phần xử lý vật chứng, phần án phí và quyền kháng cáo theo quy định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 11/9/2017 bị cáo Trần Hoa V kháng cáo bản án sơ thẩm với nội dung mức hình phạt tù 09 tháng là cao, xin được giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo Trần Hoa V giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt với lý do gia đình có khó khăn, bố mẹ già, con nhỏ, bị cáo là lao động chính. Bị cáo đã biết sai và ân hận đã nộp án phí và phạt bổ sung khi xét xử. Số tiền đánh bạc là 5.855.000 đồng trên mức khởi điểm để xử phạt bịcáo.

Đại diện VKSND tỉnh Bắc Giang thực hành quyền công tố tại phiên toà phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Đơn kháng cáo của  bị cáo được nộp cho TAND huyện L , tỉnh Bắc Giang trong thời hạn 15 ngày sau khi tuyên án nên được coi là kháng cáo hợp lệ, đề nghị HĐXX chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm cho bị cáo. Bản án sơ thẩm xét xử bị cáo là đúng người, đúng tội, không oan sai. Tại quá trình xét xử phúc thẩm bị cáo có cung cấp việc nộp án phí, tiền phạt bổsung thể hiện ý thức chấp hành pháp luật. Xét mức hình phạt 09 tháng tù cấp sơ thẩm xử  phạt bị cáo có phần nghiêm khắc so với tính chất mức độ, hành vi của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, khoản 2, Điều 248; điểm c, khoản 1, Điều 249- BLTTHS chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm số 56/2017/HSST ngày 29/8/2017 của TAND huyện L, tỉnh Bắc Giang.

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo phạm tội “Đánh bạc” .

Về hình phạt: Áp dụng khoản 1, Điều 248; Điều 33; điểm p, khoản 1, Điều 46; điểm g, khoản 1, Điều 48- Bộ luật Hình sự  xử phạt bị cáo Trần Hoa V 06 tháng tù, nhưng được trừ thời gian đã tạm giữ từ ngày 21/6/2017 đến ngày 27/6/2017, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Các quyết định khác của bản án không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

- Bị cáo tranh luận: Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì.

- Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đã biết sai, đề nghị HĐXX xem xét chấp nhận kháng cáo của bị cáo để sớm trở về với gia đình, xã hội.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo được làm trong thời hạn kháng cáo và gửi đến Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang theo đúng quy định tại khoản 1, Điều 234- Bộ luật tố tụng hình sự nên được coi là đơn kháng cáo hợp pháp. HĐXX chấp nhận xem xét giải quyết đơn kháng cáo của bị cáo theo trình tự phúc thẩm.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo: Khoảng 17 giờ ngày 21/6/2017, Trần Hoa V đang ngồi bán số lô, số đề trước cửa nhà ông Trần Văn T thì có Hoàng Văn T đến bảo V ghi cho số lô 55 là 50 điểm. V đồng ý và ghi số vào tờ cáp là tờ giấy một mặt trắng, một mặt in chữ “Soạn TA gửi 5055…” rồi đưa tờ cáp cho T. T cầm tờ cáp rồi trả cho V số tiền 1.150.000 đồng. Cũng vừa lúc này có Trịnh Văn Q đi bộ đến bảo V ghi cho các con số: 67, 76, 18, 81, 89, 98, 08, 80 mỗi con 20 điểm. V ghi số vào tờ cáp là tờ giấy một mặt trắng, một mặt in chữ “Soạn TA gửi 5055…”, hết tổng số tiền là 3.680.000 đồng. Q lấy tiền trả cho V, V nhận tiền rồi đưa tờ cáp cho Q. Khi Q vừa cất cáp vào túi thì bị tổ công tác Công an huyện L bắt quả tang.

Ngoài việc ghi số lô, số đề cho T và Q đã bị bắt quả tang nêu trên, trong ngày 21/6/2017 V còn ghi số lô, số đề cho 04 người khách không rõ họ tên, địa chỉ với số tiền là 1.025.000 đồng. Tổng số tiền Trần Hoa V ghi số lô, số đề cho khách trong ngày 21/6/2017 là 5.855.000 đồng. Như vậy hành vi của Trần Hoa V đã phạm vào tội “Đánh bạc”; tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1, Điều 248 Bộ luật hình sự. Từ những nội dung trên án sơ thẩm xét xử bị cáo Trần Hoa V về tội “Đánh bạc” theo khoản 1, Điều 248 Bộ luật hình sự năm 1999 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai.

[3] Xét nội dung kháng cáo của bị cáo thấy: Tại phiên tòa, bị cáo chỉ có yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nên các vấn đề khác của án sơ thẩm như phạt bổ sung, xử lý vật chứng, án phí…có hiệu lực pháp luật, HĐXX phúc thẩm không đặt ra giải quyết.

Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Án sơ thẩm xác định Tại bản án hình sự phúc thẩm số 253/2013/HSPT ngày 12/11/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xử phạt Trần Hoa V 09 tháng tù về tội “Đánh bạc” đến ngày 22/6/2017 bị cáo mới chấp hành xong hình phạt các khoản phí án phí hình sự sơ thẩm và án phí hình sự phúc thẩm, tiền phạt. Như vậy, tính đến thời điểm phạm tội bị cáo chưa được xóa án tích lần phạm tội này được coi là tái phạm được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự là chính xác.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Án sơ thẩm xác định bị cáo tại quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” nên được áp dụng điểm điểm p, khoản 1, Điều 46- Bộ luật hình sự là chính xác.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến lĩnh vực an toàn, trật tự công cộng, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân, bản thân bị cáo có có một tiền án về tội đánh bạc chưa được xoá án tích nên bản án sơ thẩm xử phạt bị cáo hình phạt tù có thời hạn là có căn cứ.

Tại quá trình xét xử phúc thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới. Tuy nhiên xét tính chất của vụ án, số tiền đánh bạc trên mức định lượng khởi điểm. Bị cáo có ý thức chấp hành pháp luật, mức án 09 tháng tù là có phần nghiêm khắc đối với bị cáo. Do đó HĐXX căn cứ đề nghị của đại diện viện kiểm sát chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, sửa một phần bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo.

[5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo của bị cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo điểm h, khoản 2, Điều 23- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

[6]  Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

Căn cứ điểm b, khoản 2, Điều 248; điểm c, khoản 1, Điều 249- Bộ luật tố tụng hình sự.

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Hoa V. Sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm số 56/2017/HSST ngày 29/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang.

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Hoa V phạm tội “Đánh bạc”.

- Về hình phạt: Căn cứ khoản 1, Điều 248, Điều 33, điểm p, khoản 1, Điều 46; điểm g, khoản 1, Điều 48- Bộ luật Hình sự năm 1999. Xử phạt bị cáo Trần Hoa V 06 (sáu)  tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ thời gian bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/6/2017 đến ngày 27/6/2017.

[2]. Án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng điểm h, khoản 2, Điều 23- Nghị quyết số 326/2016 UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, bị cáo Trần Hoa V không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[3].  Các  quyết  định  khác  của  bản  án  sơ  thẩm  số  56/2017/HSST  ngày 29/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

579
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 126/2017/HSPT ngày 30/11/2017 về tội đánh bạc

Số hiệu:126/2017/HSPT
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về