Bản án 125/2020/HS-PT ngày 07/12/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 125/2020/HS-PT NGÀY 07/12/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 07 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 165/2020/TLPT-HS ngày 02 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo Hà Văn K, Hà Thế V, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 71/2020/HSST ngày 15/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh Hải Dương.

- Các bị cáo kháng cáo:

1. Hà Văn K, sinh năm 1974 tại T, C, Hải Dương; nơi cư trú: Khu dân cư C, phường T, thành phố C, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Văn Kh (đã chết) và bà Trần Thị T; có vợ là Vũ Thị T; có 03 con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Bản án hình sự sơ thẩm số 41/HSST ngày 28/11/2003, Tòa án nhân dân huyện C xử phạt 03 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “Đánh bạc”, ngày 15/01/2005 chấp hành xong bản án; Bị cáo tại ngoại; có mặt.

2. Hà Thế V, sinh năm 1980 tại T, C, Hải Dương; nơi cư trú: Khu dân cư C, phường T, thành phố C, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Văn Kh (đã chết) và bà Trần Thị T; có vợ là Bùi Thị L; có 02 con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 73/QĐ-XPVPHC ngày 03/5/2006 của Công an huyện C xử phạt Văn 500.000đ về hành vi “đánh bạc”, ngày 16/5/2006 đã chấp hành xong quyết định; Bị cáo tại ngoại; có mặt.

Vụ án còn 02 bị cáo khác không kháng cáo là Hà Văn T và Đồng Ngọc P.

Bản án không bị kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản án sơ thẩm và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hà Văn K tìm hiểu việc bán số lô, số đề trái quy định của Nhà nước nhưng có lãi suất cao nên nảy sinh ý định bán số lô, số đề thu lợi. Hình thức bán số lô, số đề như sau: ai có nhu cầu mua số lô, số đề thì gặp trực tiếp hoặc nhắn tin qua số điện thoại để mua, cách chơi như sau: Số lô, số đề là số tự nhiên gồm hai chữ số từ 00 đến 99. Việc tính thắng thua sẽ được so sánh với kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng vào hồi 19 giờ cùng ngày. Nếu số đề người chơi đã mua trùng với hai chữ số cuối của giải đặc biệt thì sẽ thắng và được số tiền gấp 70 lần số tiền người chơi đã bỏ ra mua. Đối với số lô: Số lô được tính bằng điểm, 01 điểm tương ứng với 20.000đ, mua bao nhiêu điểm thì nhân số điểm mua với 20.000đ. Nếu số lô người chơi đã mua trùng với hai số cuối cùng của một trong các giải thưởng thì với mỗi điểm lô trúng, người chơi sẽ thắng được số tiền 70.000đ. Đối với các số lô xiên (gồm 03 loại lô xiên: xiên 2, xiên 3, xiên 4), tức là bán một dãy số gồm 02 hoặc 03, hoặc 04 số tự nhiên có hai chữ số từ 00 đến 99. Số trúng là dãy số có 02 hoặc 03 hoặc 04 số trùng với 02 hoặc 03 hoặc 04 số của hai số cuối của tất các các giải xổ số. Số lô xiên 4 được tính theo tỷ lệ 01 điểm (10.000đ) trúng, K phải trả cho người mua 1.000.000đ. Nếu không trúng thì người chơi thua số tiền đã bỏ ra mua số lô, số đề. K khai nhận sau khi bán các số lô, số đề cho khách, K sẽ chuyển lại cho đối tượng tên Đoàn Văn H - sinh năm 1988, địa chỉ tại phường P, thành phố B, tỉnh Bắc Giang thông qua số điện thoại di động 0983.231.238. Với mỗi điểm lô K bán sẽ được H mua lại với giá 19.500đ, với số đề và số lô xiên bán được K được trả theo tỷ lệ khi bán được 100.000đ sẽ nhận được 10.000đ. Khoảng 07 đến 10 ngày H sẽ trực tiếp gặp K để thanh toán.

Hồi 17 giờ 30 phút ngày 30/12/2019, tại nhà Hà Văn K, địa chỉ khu dân cư C, phường T, thành phố C, tỉnh Hải Dương, Công an thành phố C kiểm tra phát hiện Kiên có hành vi đánh bạc bằng hình thức bán số lô, số đề ngoài quy định của Nhà nước cho Hà Văn T thông qua điện thoại di động, cụ thể như sau: Ngày 30/12/2019, vào hồi 17 giờ 24 phút Hà Văn T sử dụng số điện thoại di động 0968.322.488 của mình nhắn tin với nội dung: “01lô25d 10, 87,47 đề mỗi con 100k” đến số điện thoại 0355.790.829 cho Hà Văn K để mua các số lô, số đề ngoài Nhà nước với tổng số tiền là 800.000đ. Kiên đã nhắn tin lại “ok” để xác nhận bán các số lô, số đề theo nội dung tin nhắn của T. T và K chưa gặp nhau thì K bị phát hiện và bắt giữ nên T chưa trả số tiền trên cho K.

Qua điều tra xác định: Ngoài hành vi bán số lô, số đề trái pháp luật cho Tùng, ngày 30/12/2019 còn xác định vào các ngày 14/10/2019 và ngày 28, 29/12/2019, K còn thực hiện hành vi bán số lô, số đề trái pháp luật cho Tống Văn Đ, Hà Văn T, Hà Thế V, Đồng Ngọc P, cụ thể như sau:

- Vào hồi 17 giờ 54 phút ngày 14/10/2019, Tống Văn Đ, sinh năm 1976, trú tại: Khu dân cư N, phường T, thành phố C, tỉnh Hải Dương sử dụng ứng dụng Zalo nhắn tin cho K để mua số lô ngoài Nhà nước với số tiền là 500.000đ. K nhắn tin lại “Lo 72-25d ok nhé” để xác nhận đồng ý bán số lô theo nội dung tin nhắn của Đ. Đ đã trả tiền cho K, ngày 14/10/2019 Đ không trúng thưởng.

- Vào hồi 17 giờ 26 phút ngày 29/12/2019, Hà Văn T, sử dụng số điện thoại 0968.322.488 nhắn tin với nội dung: “10lô25d 01,10,87 đề mỗi con 100k”; “Nhầm 01lô25d 01,10,87 đề mỗi con 100k” đến số điện thoại 0355.790.829 cho Hà Văn K để mua các số lô, số đề ngoài Nhà nước với tổng số tiền là 800.000đ. K đã nhắn tin lại “ok” để xác nhận bán các số lô, số đề theo nội dung tin nhắn của T. Căn cứ kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng ngày 29/12/2019, T trúng thưởng số lô 01 và số đề 01 được số tiền 8.750.000đ. Sau khi trừ số tiền T mua các số lô, đề K phải trả cho T số tiền 7.950.000đ (chưa thanh toán tiền).

- Vào hồi 17 giờ 44 phút ngày 29/12/2019, Hà Thế V dùng số điện thoại 0905.711.003 nhắn tin với nội dung “Lo.38.300djem” đến số điện thoại 0355.790.829 cho Hà Văn K để mua số lô ngoài Nhà nước với số tiền là 6.000.000đ, K nhắn tin lại “ok” để xác nhận đồng ý bán các số lô theo nội dung tin nhắn của V. Ngày 29/12/2019, Văn không trúng thưởng và V chưa trả cho K số tiền mua số lô.

- Vào hồi 17 giờ 19 phút ngày 28/12/2019, Đồng Ngọc P dùng số điện thoại 0819.090.970 nhắn tin với nội dung “Lo 86 65 27 m30” đến số điện thoại 0355.790.829 cho Hà Văn K để mua các số lô ngoài Nhà nước với tổng số tiền là 1.800.000đ. Căn cứ kết quả sổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng trong ngày, P trúng thưởng cả ba số lô trên được 6.300.000đ. Hồi 17 giờ 21 phút ngày 29/12/2019, Phú dùng số điện thoại 0819.090.970 nhắn tin với nội dung “Lo 32 42 67 m30”; “Xien 32 19 42 67 m200” đến số điện thoại 0355.790.829 cho Hà Văn K để mua các số lô, số lô xiên bốn ngoài Nhà nước với tổng số tiền là 2.000.000đ. K nhắn tin lại “ok” để xác nhận đồng ý bán các số lô, lô xiên bốn theo nội dung tin nhắn của Phú. Ngày 29/12/2019, P không trúng thưởng. K và P đã chốt số tiền đánh bạc trong hai ngày 28, 29 tháng 12 năm 2019 với nhau qua điện thoại và chưa thanh toán tiền với nhau.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 71/2020/HSST ngày 15/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố C đã căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt: Bị cáo Hà Văn K 23 (Hai mươi ba) tháng tù, thời hạn tính từ ngày bắt thi hành án và căn cứ vào khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt: Bị cáo Hà Thế V 11 (Mười một) tháng tù, thời hạn tính từ ngày bắt thi hành án. Ngoài ra bản án còn tuyên hình phạt đối với bị cáo T, P, tuyên về án phí, hình phạt bổ sung, biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng, quyền kháng cáo.

Ngày 24/9/2020 các bị cáo K, V kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo, cải tạo tại địa phương.

Tại phiên tòa, các bị cáo thay đổi chỉ đề nghị được cải tạo không giam giữ tại địa phương.

Đại diện VKSND tỉnh Hải Dương tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Tài liệu trong hồ sơ thể hiện K trực tiếp bán và thanh toán tiền lô đề cho P, T, V nên xác định K có vai trò chính trong vụ án. V sử dụng 6 triệu đánh bạc nên giữ vai trò đồng phạm thực hành. Tại các giai đoạn các bị cáo đều thành khẩn khai báo, có ông nội là liệt sỹ, V phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, những tình tiết giảm nhẹ này đã được Tòa sơ thẩm áp dụng đối với các bị cáo. Tại giai đoạn phúc thẩm, các bị cáo cung cấp tài liệu chứng minh tình tiết giảm nhẹ TNHS mới là ủng hộ quỹ người nghèo, sau khi xử sơ thẩm các bị cáo đã thi hành quyết định theo bản án sơ thẩm. Xét thấy các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên thấy không nhất thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội nên có căn cứ để xem xét cho các bị cáo được cải tạo không giam giữ tại địa phương.

Đề nghị HĐXX chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, sửa bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với 02 bị cáo. Xử phạt K 23 tháng cải tạo không giam giữ. Khấu trừ 10% thu nhập hàng tháng của bị cáo trong thời gian cải tạo không giam giữ. Xử phạt V 11 tháng cải tạo không giam giữ. Khấu trừ 05% thu nhập hàng tháng của bị cáo trong thời gian cải tạo không giam giữ để sung quỹ nhà nước. Về án phí: Các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Kháng cáo của các bị cáo trong thời hạn luật định, là kháng cáo hợp lệ nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với lời khai của những bị cáo khác, người làm chứng, các tài liệu trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian từ 28/12/2019 đến ngày 29/12/2019, tại nhà ở của Hà Văn K khu dân cư C, phường T, thành phố C, Kiên có hành vi “đánh bạc” bằng hình thức bán số lô, số đề, cụ thể: Ngày 28/12/2019, Kiên bán số lô cho Đồng Ngọc P với số tiền 1.800.000đ, sau khi có kết quả xổ số Phú trúng thưởng 6.300.000đ. Ngày 29/12/2019 K bán số lô cho Đồng Ngọc P với số tiền là 2.000.000đ; bán số lô, số đề cho Hà Văn T là 9.550.000đ; bán số lô cho Hà Thế V là 6.000.000đ. Như vậy số tiền K dùng vào việc đánh bạc là 25.650.000đ,V dùng vào việc đánh bạc là 6.000.000đ. Cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội đánh bạc theo khoản 1 điều 321 BLHS là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo K và V thấy rằng: Hai bị cáo có quan hệ là anh em ruột, Kiên bán số lô, số đề mục đích chuyển cho chủ đề là Đoàn Văn H ở TP B để hưởng phần trăm, tuy nhiên chưa kịp chuyển và thanh toán tiền cho chủ đề và những người chơi lô đề thì bị bắt, như vậy K không phải là chủ đề mà có vai trò giúp sức trong việc đánh bạc. Số tiền K và V dùng vào việc đánh bạc không lớn, các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ đó là: khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, có ông nội là liệt sĩ, sau khi vụ việc bị phát hiện đã đến cơ quan điều tra đầu thú, bị cáo V có thêm tình tiết phạm tội lần đầu thuộc trường ít nghiêm trọng, các tình tiết giảm nhẹ này được quy định tại điểm s,i khoản 1, 2 điều 51 BLHS. Tại giai đoan phúc thẩm các bị cáo tích cực ủng hộ tiền cho quỹ người nghèo tại địa phương; nộp biên lai thu tiền án phí, tiền phạt theo bản án sơ thẩm thể hiện ý thức chấp hành pháp luật và tinh thần trách nhiệm với cộng đồng. Xét thấy các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS, giai đoạn phúc thẩm có thêm tình tiết giảm nhẹ mới, có nơi cư trú rõ ràng, nên HĐXX thấy không nhất thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội mà áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ tại địa phương cũng đủ tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung trong xã hội, kháng cáo của các bị cáo có căn cứ nên chấp nhận.

[4] Về án phí: Các bị cáo kháng cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị, Hội đồng xét xử không xét và đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm đ khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Hà Thế V và Hà Văn K. Sửa bản án sơ thẩm số 71/2020/HSST ngày 15/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố C về phần hình phạt đối với bị cáo K, V:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 36 Bộ luật hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa á; Áp dụng thêm điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS đối với V.

1. Xử phạt:

- Bị cáo Hà Văn K 23 (Hai mươi ba) tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan được giao giám sát, giáo dục nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Khấu trừ 10% thu nhập hàng tháng của bị cáo K để sung quĩ Nhà nước trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ.

- Bị cáo Hà Thế V 11 (Mười một) tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan được giao giám sát, giáo dục nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Khấu trừ 5% thu nhập hàng tháng của bị cáo V để sung quĩ Nhà nước trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ.

Giao các bị cáo Hà Văn K, Hà Thế V cho Ủy ban nhân dân phường T, thành phố C, tỉnh Hải Dương giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

2. Về án phí: Các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 07/12/2020.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 125/2020/HS-PT ngày 07/12/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:125/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về