Bản án 125/2020/HNGĐ-ST ngày 25/05/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 125/2020/HNGĐ-ST NGÀY 25/05/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 25 tháng 5 năm 2020 tại Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 212/2020/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 4 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 121/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 4 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số: 90/2020/QĐST- HNGĐ ngày 08 tháng 5 năm 2020giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Dương Quốc P, sinh năm 1979. Địa chỉ: Ấp K, xã T, huyện T, tỉnh Cà Mau; có mặt.

- Bị đơn: Chị Trịnh Thị N, sinh năm 1981. Địa chỉ: Ấp K, xã T, huyện T, tỉnh Cà Mau; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 16/4/2020, biên bản hòa giải và và tại phiên tòa nguyên đơn Dương Quốc P trình bày:

Về hôn nhân: Anh và chị N kết hôn năm 2012, hôn nhân tự nguyện, có tổ chức hôn lễ, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Hiện tại vợ chồng đã ly thân nhau. Xét thấy cuộc sống chung không còn tình cảm, mục đích hôn nhân không đạt được, mâu thuẫn thường xuyên xảy ra và không hàn gắn được nên anh yêu cầu ly hôn với chị N.

Về con chung: Có hai người con chung, cháu Dương Quốc K, sinh ngày 17/3/2013 và cháu Dương Thị Mỹ D, sinh ngày 28/02/2015. Các cháu hiện đang sống cùng chị. Anh đồng ý giao con cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng và anh cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

Về tài sản chung: Anh xác định tự thõa thuận với chị N, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Anh xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại Biên bản hòa giải ngày 29/4/2020, chị Trịnh Thị N xác định:

Về hôn nhân: Chị thống nhất lời trình bày của anh về thời gian chung sống, thời gian kết hôn, hôn nhân do chị tự nguyện lựa chọn. Chị không đồng ý ly hôn với anh P, chị xác định hiện vẫn còn yêu thương chồng và mong muốn hàn gắn quan hệ vợ chồng, cùng nhau nuôi dạy các con.

Về con chung: Có hai người con chung, cháu Dương Quốc K, sinh ngày 17/3/2013 và cháu Dương Thị Mỹ D, sinh ngày 28/02/2015. Các cháu hiện đang sống cùng chị, chị đồng ý trực tiếp nuôi dưỡng con chung và yêu cầu anh P có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

Về tài sản chung: Chị xác định tự thõa thuận với anh P, không yêu cầu tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Chị xác định không có, không yêu cầu tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn chị Trịnh Thị N có hộ khẩu thường trú tại ấp Kinh Cũ, xã Trần Hợi, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Anh P khởi kiện yêu cầu ly hôn đối với chị N, yêu cầu giao con chung cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng nên quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án được xác định là "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con " theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự; anh P là người khởi kiện, chị N là người bị kiện nên xác định tư cách đương sự anh P là nguyên đơn, chị N là bị đơn theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 68 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Chị N đã được tòa án triệu tập xét xử hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do; căn cứ theo Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Tòa án xét xử vắng mặt chị N theo quy định của pháp luật.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh P và chị N tự nguyện xác lập quan hệ hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Trần Hợi, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau vào ngày 04/10/2012 đúng theo quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa anh chị được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp.

Xét nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do bất đồng quan điểm, thường xuyên cự cãi, gia đình hai bên có hàn gắn nhưng không thành, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Anh P xác định không còn tình cảm vợ chồng với chị N và thể hiện sự quyết tâm mong muốn được ly hôn, chị N không đồng ý ly hôn nhưng chị không đưa ra được giải pháp nào để thuyết phục được anh P từ bỏ ý định xin ly hôn với chị. Anh P xác định, nếu cho các bên tiếp tục chung sống sẽ không mang lại hạnh phúc, do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của anh P được ly hôn với chị N.

[3] Về con chung: Anh P và chị N có hai người con chung là Dương Quốc K, sinh ngày 17/3/2013 và cháu Dương Thị Mỹ D, sinh ngày 28/02/2015. Các cháu hiện đang sống cùng chị N và anh chị thống nhất giao con chung cho chị N được tiếp tục nuôi dưỡng. Cháu D hiện vẫn chưa đủ tuổi để ghi nhận nguyện vọng của cháu theo quy định của pháp luật, riêng cháu K qua Biên bản ghi nhận ý kiến của cháu và cháu yêu cầu được sống cùng với chị N sau khi anh chị ly hôn. Xét thấy, các cháu từ trước đến nay sống cùng với chị N, chị là người trực tiếp chăm sốc các cháu, anh P đồng ý giao các cháu cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng, do đó Hội đồng xét xử quyết định giao các cháu cho chị N tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với nguyện vọng và điều kiện cụ thể của hai bên đương sự và đúng với quy định của pháp luật.

4] Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con: Xét thấy, việc cấp dưỡng cho con là nghĩa vụ của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con theo quy định tại khoản 2 Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình. Về mức cấp dưỡng, theo quy định tại Điều 116 và Điều 117 Luật hôn nhân và gia đình và hướng dẫn tại khoản 2, mục III của Công văn số 24/1999/KHXX ngày 17/3/1999 của Tòa án nhân dân tối cao thì mức cấp dưỡng tối thiểu không dưới 1/2 mức lương cơ sở do nhà nước quy định tại thời điểm xét xử đối với 01 người con, do đó anh P có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi hai cháu Dương Quốc K và cháu Dương Thị Mỹ D với số tiền 1.000.000 đồng/tháng đối với mỗi cháu cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi là có cơ sở. Thời điểm cấp dưỡng được tính kể từ ngày 25/5/2020.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Anh P và chị N xác định tài sản chung tự thõa thuận, nợ chung không có, không yêu cầu tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc anh P phải chịu tiền án phí sơ thẩm về hôn nhân và gia đình, và án phí cấp dưỡng nuôi con.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 và khoản 3 Điều 68, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227, Điều 228, Điều 235, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 9, Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 110, Điều 116 và Điều 117 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Dương Quốc P về việc yêu cầu được ly hôn với chị Trịnh Thị N.

2. Về con chung: Giao con chung Dương Quốc K, sinh ngày 17/3/2013 và cháu Dương Thị Mỹ D, sinh ngày 28/02/2015 cho chị Trịnh Thị N trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Dương Quốc P không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở.

3. Về cấp dưỡng: Buộc anh Dương Quốc P có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Dương Quốc K, sinh ngày 17/3/2013 và cháu Dương Thị Mỹ D, sinh ngày 28/02/2015 với số tiền 1.000.000 đồng/tháng đối với mỗi cháu cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Thời điểm cấp dưỡng được tính kể từ ngày 25/5/2020.

4. Về án phí: Anh Dương Quốc P phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con, anh có nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0003453 ngày 16 tháng 4 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau được chuyển thu, đối trừ, anh Dương Quốc P phải nộp tiếp 300.000 đồng.

Anh Dương Quốc P được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị Trịnh Thị N được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 125/2020/HNGĐ-ST ngày 25/05/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:125/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về