Bản án 125/2019/HS-ST ngày 19/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ QUỐC, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 125/2019/HS-ST NGÀY 19/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 19 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Quốc đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 118/2019/TLST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 120/2019/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Trương Ân B, sinh năm: 1996, tại: P Q, Kiên Giang; Nơi cư trú: ấp C V, xã G D, huyện P Q, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trương Văn P và bà Lê Thị T; Bị cáo chưa có vợ; tiền án: không, tiền sự: không Bị cáo bị bắt tạm giữ tạm giam từ ngày 21/8/2019. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 17 giờ, ngày 20/8/2019, Trương Ân B gọi điện thoại cho một người bạn tên S B (chưa rõ nhân thân) hỏi mua 1.000.000 đồng ma túy để sử dụng. S B đồng ý và hẹn B đến khu vực chợ thị trấn A T, huyện P Q, tỉnh Kiên Giang để mua bán ma túy. B đến chỗ hẹn thì gặp một người đàn ông (Chưa rõ nhân thân) đến kêu B đưa 1.000.000 đồng, rồi chỉ cho B đến khu đất trống thuộc khu phố 5, thị trấn An Thới, huyện Phú Quốc lấy 01 bịch ma túy để trong gói thuốc lá Jet. Sau đó, B mang 0 bịch ma túy vừa mua được đến khu vực trước cổng vào khu nghỉ dưỡng Mariot, thuộc khu phố 6, thị trấn An Thới, huyện Phú Quốc, chia thành 05 bịch nhỏ, có kích thước khác nhau rồi cất giấu vào túi quần để giành sử dụng. Đến khoảng 00 giờ 15 phút, ngày 21/8/2019, B điều khiển xe HDMOTOR, biển số 68K1-088.21 của anh Trần Hoàng L (B mượn xe của anh L) đến cây xăng “T H”, thuộc ấp Suối Lớn, xã Dương Tơ, huyện Phú Quốc để đón người bạn tên M (chưa rõ nhân thân). Trong lúc B đang đứng đợi M, thì bị lực lựng Công an huyện Phú Quốc đi tuần tra, tiến hành kiểm tra phát hiện B đang cất giấu 05 bịch nylon được hàn kín, bên trong có các hạt tinh thể rắn, màu trắng không đồng nhất trong túi quần, B khai nhận đó là ma túy đá mua về để sử dụng.

Tang vật thu giữ: 02 (hai) bịch nylon màu trắng, có kích thước 01 cm x 3,3 cm được hàn kín, bên trong chứa các hạt tinh thể rắn, màu trắng, không đồng nhất, đã được niêm phong; 02 (hai) bịch nylon màu trắng có kích thước 01 cm x 3,2 cm được hàn kín, bên trong chứa các hạt tinh thể rắn, màu trắng, không đồng nhất, đã được niêm phong; 01 (một) bịch nylon màu trắng có kích thước 1,3 cm x 2,3 cm được hàn kín, bên trong chứa các hạt tinh thể rắn, màu trắng, không đồng nhất, đã được niêm phong; 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu vàng đồng, có số IMEI: 359317025234589, đã qua sử dụng.

* Tại Bản kết luận giám định số: 521/KL-KTHS ngày 23/8/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang kết luận: Các hạt tinh thể rắn, màu trắng, không đồng nhất chứa trong 05 bịch nylon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamin. Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,5892 gam.

Methamphetamin là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính Phủ.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định số 521/KL-KTHS ngày 23/8/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang.

Bản cáo trạng số 130/CT-VKSPQ ngày 05 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Quốc đã truy tố bị cáo Trương Ân B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ Luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa Trương Ân B khai nhận: Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên vào khỏang 17 giờ ngày 20/8/2019 B đã gọi điện thoại cho S B mua ma túy với 1.000.000đ ma túy. Sau khi nhận ma túy bị cáo phân ra thành 05 bịch nhỏ rồi cất giấu vào túi quần. Đến khoảng 00 giờ 15 phút khi đang đứng đợi bạn tại cây xăng T H thuộc ấp Suối Lớn, xã Dương Tơ thì bị lực lượng Công an huyện Phú Quốc kiểm tra phát hiện bị cáo đang cất giấu 05 bịch ma túy như cáo trạng mà viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Quốc đã truy tố. Lời nói sau cùng của bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Sau phần xét hỏi công khai tại phiên tòa, đại diện viện kiểm sát thực hành quyền công tố trình bày lời luận tội đối với bị cáo. Qua phân tích hành vi phạm tội, đánh giá tính chất vụ án, nêu các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Trương Ân B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015.

Đề nghị HĐXX căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS năm 2015 ; Xử phạt bị cáo Trương Ân B từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 0,5279 gam Methamphetamine và bao gói đựng mẫu sau giám định được niêm phong; Tich thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu vàng đồng có số IMEI: 359317025234589, đã qua sử dụng.

Đối với người thanh niên và người tên S B bán ma túy cho bị cáo Cơ quan cảnh sát điều tra đang tiếp tục điều tra làm rõ để xử lý sau.

Anh Trần Hoàng L không biết bị cáo sử dụng xe HDMOTOR, biển số 68K1-088.21 vào việc phạm tội nên đã trả lại cho anh L.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng:

Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, Điều tra viên, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang, Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang đã tuân thủ nghiêm các quyền và nghĩa vụ của mình, thực hiện các hành vi, quyết định tố tụng đúng trình tự, thủ tục và thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Người tham gia tố tụng không có khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng do đó các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. [2] Đánh giá chứng cứ: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai trong giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa.

Tại Bản kết luận giám định số: 521/KL-KTHS ngày 23/8/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang kết luận: Các hạt tinh thể rắn, màu trắng, không đồng nhất chứa trong 05 bịch nylon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamin. Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,5892 gam.

Như vậy Hội đồng xét xử đã đủ cơ sở để xác định cáo trạng mà viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Quốc truy tố bị cáo Trương Ân B về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là đúng người, đúng tội phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Tệ nạn ma túy đang là hiểm họa của toàn xã hội, là một trong những nguyên nhân phát sinh nhiều tệ nạn xã hội, làm suy thoái nòi giống, băng hoại đạo đức và ảnh hưởng đến phẩm giá con người. Tại thời điểm phạm tội bị cáo có đầy đủ khả năng nhận thức hành vi cất giữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng cần ma túy để sử dụng mà bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, Hội đồng xét xử phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục đối với bị cáo và cũng phòng ngừa chung cho xã hội đối với loại tội phạm này.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thật thà khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy và tịch thu nộp ngân sách nhà nước tang vật liên quan đến việc phạm tội.

[6] Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát: Tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt và xử lý vật chứng mà vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ nên HĐXX chấp nhận.

[7] Về án phí: bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Về trách nhiệm hình sự:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015. Căn cứ Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về việc quy định mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: bị cáo Trương Ân B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Xử phạt: Bị cáo Trương Ân B 01 (một) năm tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 21/8/2019.

2.Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 0,5279 gam Methamphetamine và bao gói đựng mẫu sau giám định được niêm phong; Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu vàng đồngcó số IMEI: 359317025234589, đã qua sử dụng.

(Tang vật trên đã được chuyển giao cho chi cục thi hành án Dân sự huyện Phú Quốc theo quyết định chuyển giao vật chứng số 82/QĐ-VKSPQ-HS ngày 05/11/2019)

3. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

238
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 125/2019/HS-ST ngày 19/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:125/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phú Quốc - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về