Bản án 125/2019/HS-ST ngày 15/11/2019 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN LỘC, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 125/2019/HS-ST NGÀY 15/11/2019 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 15 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 127/2019/TLST- HS ngày 08 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 128/2019/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 11 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. LÊ BẢO T; Giới tính: Nam; Sinh năm 1992 tại Đà Nẵng:

Nơi cư trú: khu phố 4, thị trấn Gia Ray, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 09/12; Quốc tịch: Việt Nam:

Dân Tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật; con ông Lê Văn T và bà Nguyễn Thị Th; Vợ: Lê Thị M, có 02 người con lớn nhất sinh năm 2016 nhỏ nhất sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không. Bắt tạm giam từ ngày 18/7/2019 đến ngày 15/8/2019.

2. HÀ TUẤN C, (Bé); Giới tính: Nam; Sinh năm: 1992 tại Đồng Nai; Nơi cư trú: khu phố 1, thị trấn Gia Ray, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai:

Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 08/12; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc:

Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; con ông Hà Văn L và bà Phan Thị H; vợ: Nguyễn Thị Bích Tr; có 01 người con sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 29/6/2015, TAND huyện Xuân Lộc xử phạt 08 tháng tù về tội “Bắt người trái pháp luật” tại Bản án số 77/2018/HSST. Ngày 16/9/2015, TAND tỉnh Đồng Nai xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị can, giữ nguyên bản án sơ thẩm tại Bản án số 224/2015/HSPT. Đã chấp hành xong hình phạt tù và hình phạt bổ sung. Đã xóa án tích.

Bắt tạm giam từ ngày 18/7/2019 đến ngày 15/8/2019.

3. TRẦN THANH T; Giới tính: Nam; sinh năm: 1995 tại Bạc Liêu:

Nơi cư trú: ấp Cây Giang, xã Long Điền, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu; Nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 06/12; quốc tịch: Việt Nam; Tộc: Kinh:

Tôn giáo: Không; con ông Trần Văn M và bà Nguyễn Hồng S; Vợ, con: Chưa; Tiền án, tiền sự: Không; Bắt tạm giam từ ngày 18/7/2019 đến ngày 15/8/2019.

4. NGUYỄN CHÍ T (C); Giới tính: Nam.

Sinh năm: 1999 tại Đồng Nai; Nơi cư trú: ấp Cây Giang, xã Long Điền, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: 07/12; quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; tôn giáo: phật; con ông Nguyễn Đồng Ch và bà Lê Kim Ph; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: không. Bắt tạm giam từ ngày 18/7/2019 đến ngày15/8/2019.

(Các bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa).

- Bị hại: Ông Đặng Văn H, sinh năm: 1971 (vắng mặt).

Nơi cư trú: khu phố 2, thị trấn G, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Hà Tuấn Đ, sinh năm: 1985(có mặt) Nơi cư trú: khu phố 4, thị trấn G, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.

2. Anh Nguyễn Trường Nh, sinh năm: 1978 (có mặt) Nơi cư trú: số 2Q đường Nguyễn Văn Cừ, khu phố 3, thị trấn Gia Ray, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.

3. Bà Phan Thị H, sinh năm 1968(vắng mặt) Nơi cư trú: khu phố 1, thị trấn Gia Ray, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.

- Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Thanh Ph, sinh năm: 1985(vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn 2A, xã Đông Hà, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận.

2. Anh Lê Minh X, sinh năm: 1990 (vắng mặt).

Nơi cư trú: Thôn 2A, xã Đông Hà, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận.

3. Anh Dương Việt B, sinh năm: 1976 (vắng mặt) Nơi cư trú: ấp Bình Minh, xã Suối Cát, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 18 giờ ngày 06/7/2019, bị cáo Hà Tuấn C tổ chức ăn nhậu tại nhà cùng Lê Bảo T, Trần Thanh T, Nguyễn Chí T và một số người bạn của C. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, Bảo T rủ C đi trộm cắp cây bông giấy của anh Đặng Văn H tại khu phố 4, thị trấn Gia Ray, huyện Xuân Lộc thì C đồng ý nói và nói với Lê Bảo T nhổ cây đem về nhà họ của C trồng rồi đem bán. Do đang uống rượu với bạn nên C nói Lê Bảo T đi trộm cắp tài sản cùng Trần Thanh T. Bị cáo Lê Bảo T rủ Thanh T đi trộm cắp cây bông giấy, do đã nghe được C với Bảo T bàn bạc trộm cắp cây bông giấy nên Thanh T đồng ý. Sau đó, Lê Bảo T điều khiển xe mô tô biển số 60T7-2357 chở Thanh T đến thửa đất nhà anh Hùng rồi cả hai vào ôm thân cây lắc nhổ lên, chở về nhà C. Khi về đến đường số 5, thuộc khu phố 1, thị trấn Gia Ray thì thân cây nặng nên cả 02 dừng xe, cất giấu vào bụi cỏ bên đường rồi chạy về nói với C và T “cây nặng quá mày với thằng T ra khiêng phụ bọn tao”. Trước đó, T đã nghe được Bảo T nói chuyện bàn bạc trộm cây bông giấy và biết Bảo T chở Thanh T đi trộm cây bông giấy nên T đồng ý. Bảo T điều khiển xe mô tô biển số 60T7-2357 chở Thanh T, C điều khiển xe mô tô biển số 60S1-9465 chở T đến vị trí cất giấu cây bông giấy bê cây bông giấy lên tiếp tục chở về để bên hông nhà C. Sau đó, C sử dụng xe mô tô 3 bánh (xe ba gác của gia đình C) chở cây bông giấy và Bảo T, T đi cất giấu tại nhà anh họ tên Tỏi (chưa xác định được họ tên, lai lịch) thuộc xã Nam Chính, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận. Trên đường đi Bảo T thay C điều khiển xe. Khi đi đến xã Xuân Trường, huyện Xuân Lộc thì tự va đụng vào bụi cây bên đường làm xe hư hỏng nhẹ nên cả 03 cất giấu cây vào bụi cây bên đường rồi đưa xe mô tô 3 bánh trên về lại nhà C. Sau đó, C điều khiển xe mô tô biển số 60S1-9465 chở T, còn Bảo T điều khiển xe mô tô biển số 60T7-2357 chở Thanh T đến vị trí trên lấy cây bông giấy và tiếp tục chở cây bông giấy đi theo hướng tỉnh Bình Thuận. Đến khoảng 03 giờ ngày 07/7/2019, khi đi ngang qua địa phận thuộc xã Đông Hà, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận thì anh Lê Minh X phát hiện đã truy hô một số người dân đuổi theo và trình báo Công an xã Đông Hà.

*Tại Kết luận định giá tài sản định giá tài sản số 50/KL-HĐĐG ngày 09/7/2019, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Xuân Lộc kết luận: giá trị của 01 cây bông giấy, kích thước hoành 55cm (chu vi 55cm), cao 180cm, khoảng 10 năm tuổi, cành cây đang được dùng dây nhôm uốn định hình, cây đang phát triển tốt là 6.000.000 đồng.

* Vật chứng vụ án:

- 01 cây bông giấy, kích thước hoành 55cm (chu vi 55cm), cao 180cm, khoảng 10 năm tuổi.

- 01 xe mô tô biển số 60T7-2357; xe mô tô biển số 60S1-9465; 01 xe ba gác máy biển số 60T2-6076.

Tại bản cáo trạng số: 130/CT-VKSXL ngày của Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai đã truy tố các bị Lê Bảo T, Hà Tuấn C, Trần Thanh T đã phạm vào tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự; truy tố bị cáo Nguyễn Chí T đã phạm vào tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố theo nội dung cáo trạng và đề nghị:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Điều 58, Điều 65 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lê Bảo T từ 08 tháng đến 10 tháng nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách gấp đôi.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58, Điều 65 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Hà Tuấn C từ 08 tháng đến 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách gấp đôi.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58, Điều 65 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Thanh T từ 08 tháng đến 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách gấp đôi.

Áp dụng khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự; điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58, Điều 65 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Chí T từ 06 tháng đến 08 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách gấp đôi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa các bị cáo Lê Bảo T, Hà Tuấn C, Trần Thanh T, Nguyễn Chí T khai nhận: Vào ngày 06/7/2019 tại khu phố 4, thị trấn Gia Ray, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, Lê Bảo T, Hà Tuấn C và Trần Thanh T đã có hành vi lén lút trộm cắp của anh Đặng Văn H 01 cây bông giấy trị giá 6.000.000 đồng. Bị cáo Nguyễn Chí T biết rõ cây bông giấy do trộm cắp mà có nhưng đã có hành vi giúp sức cho các Lê Bảo T, Hà Tuấn C, Trần Thanh T vận chuyển đi giấu nơi khác để tiêu thụ. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng, biên bản lấy lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa liên quan liên quan đến vụ án, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập trong hồ sơ vụ án. Như vậy, hành vi của các bị cáo Lê Bảo T, Hà Tuấn C, Trần Thanh T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Hành vi của Nguyễn Chí T đã đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự

[2] Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội, trong đó, bị cáo Lê Bảo T là người rủ rê và người thực hành tích cực, bị cáo Trần Thanh T tham gia với vai trò người thực hành, bị cáo Hà Tuấn C và bị cáo Nguyễn Chí T tham gia với vai trò là người giúp sức nên khi quyết định hình phạt cũng cân nhắc đến vai trò của các bị cáo.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội gây thiệt hại không lớn, tài sản đã thu hồi và trả lại cho người bị hại, bị cáo Lê Bảo T, Trần Thanh T, Chí T phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, các bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, người bị hại có đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

[5] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ và xâm phạm an ninh trật tự tại địa phương, nên cần áp dụng hình phạt ngiêm nhằm răn đe đấu tranh và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét các bị cáo Lê Bảo T, Trần Thanh T, Nguyễn Chí T có nhân thân tốt, bị cáo Hà Tuấn C tham gia với vai trò là người giúp sức nên không cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội mà giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi các bị cáo cư trú quản lý, giáo dục là đủ nghiêm.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là anh Đặng Văn H đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu thêm về trách nhiệm dân sự nên không xét.

[7] Về vật chứng vụ án:

- Đối với 01 cây bông giấy, kích thước hoành 55cm (chu vi 55cm), cao 180cm, khoảng 10 năm tuổi đã trả lại cho chủ sở hữu anh Đặng Văn H là phù hợp nên không xét.

- Đối với xe mô tô biển số 60T7-2357 của anh Hà Tuấn Đ, anh Đ không biết bị cáo Lê Bảo T sử dụng xe làm phương tiện phạm tội nên cơ quan Công an trả xe mô tô biển số 60T7-2357 cho anh Đ là phù hợp.

- Xe mô tô biển số 60S1-9465 của anh Nguyễn Trường Nh cho bị cáo C mượn sử dụng làm phương tiện đi lại, việc C sử dụng xe làm phương tiện phạm tội thì anh Nh không biết nên cơ quan Công an trả xe mô tô biển số 60S1-9465 cho anh Nh là phù hợp.

- Đối với xe ba gác máy biển số 60T2-6076 của bà Phan Thị H, bà H không biết bị cáo C sử dụng xe làm phương tiện phạm tội nên Cơ quan Công an không tiến hành thu giữ là phù hợp.

[8] Đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[9] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[10] Về án phí: Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội và bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Lê Bảo T, Hà Tuấn C, Trần Thanh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Bị cáo Nguyễn Chí T phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58, Điều 65 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Lê Bảo T: 01 (Một) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 (Hai) năm tính từ ngày 15/11/2019.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58, Điều 65 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Trần Thanh T: 10 (Mười) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm 08 ( tám) tháng tính từ ngày 15/11/2019.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58, Điều 65 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Hà Tuấn C: 10 (Mười) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm 08 ( tám) tháng tính từ ngày 15/11/2019.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 323; điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58, Điều 65 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Chí T: 08 (Tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm 04 ( bốn) tháng tính từ ngày 15/11/2019.

Giao bị cáo Lê Bảo T, Hà Tuấn C cho Ủy ban nhân dân thị trấn Gia Ray, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai quản lý giáo dục trong thời gian thử thách.

Giao bị cáo Trần Thanh T, Nguyễn Chí T cho Ủy ban nhân dân xã Long Điền, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu quản lý giáo dục trong thời gian thử thách Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.

Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về Án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc các bị cáo Lê Bảo T, Hà Tuấn C, Trần Thanh T, Nguyễn Chí T mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo Lê Bảo T, Hà Tuấn C, Trần Thanh T, Nguyễn Chí T và anh Nguyễn Trường Nh, anh Hà Tuấn Đ được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 125/2019/HS-ST ngày 15/11/2019 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Số hiệu:125/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Lộc - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về