Bản án 125/2018/HSST ngày 15/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ LONG KHÁNH - TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 125/2018/HSST NGÀY 15/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 11 năm 2018, tại Trụ sở Ủy ban nhân dân phường XA, thị xã LK, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 152/2018/TLST-HS ngày 29/10/2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 139/2018/QĐXX ST-HS ngày 02/11/2018 đối với bị cáo:

NGUYỄN NGỌC MINH A (tên gọi khác: Đ), sinh năm 1996 tại ĐN; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: số 22, đường HD, khu phố 4, phường XT, thị xã LK, tỉnh Đồng Nai; Nơi cư trú: ấp 2, xã BL, thị xã LK, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1975 và bà Vòng Thị Ngọc C, sinh năm 1975; Tiền án: không; Tiền sự: 02:

- Ngày 10/8/2016, bị Tòa án nhân dân thị xã LK, tỉnh Đồng Nai áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng, đến ngày 12/01/2017 được tạm đình chỉ chấp hành cho đến nay.

- Ngày 02/8/2017, bị Công an xã BT, thị xã LK, tỉnh Đồng Nai xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản, hiện chưa nộp phạt.

Nhân thân: Ngày 03/8/2017, bị Công an xã BV, thị xã LK, tỉnh Đồng Nai xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản, đã nộp phạt ngày 07/8/2017.

Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 09/8/2018 (có mặt).

- Người bị hại:

1. Chị Hồ Và C, sinh năm 1990.

Địa chỉ: ấp 1, xã BL, thị xã LK, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt).

2. Chị Đỗ Phương L, sinh năm 1974 (vắng mặt).

3. Anh Châu Đình H, sinh năm 1964 (vắng mặt).

Cùng địa chỉ: HV, khu phố 3, phường XB, thị xã LK, tỉnh Đồng Nai.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Phan Thị Thu H, sinh năm 1972.

Địa chỉ: khu phố 3, phường XH, thị xã LK, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt).

2. Chị Nguyễn Thị Ngọc L, sinh năm 1985.

Địa chỉ: ấp 1, xã TL, huyện TP, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Ngọc Minh A là đối tượng nghiện ma túy. Để có tiền sử dụng ma túy và tiêu xài cá nhân, A đã nhiều lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, cụ thể:

Lần 1: Khoảng 09 giờ 30 phút, ngày 30/3/2018, A mượn xe mô tô biển số 60B6- 240.66 của người bạn tên T (không rõ nhân thân, lai lịch) đi từ xã BL ra trung tâm thị xã LK. Khi đi qua cửa hàng tạp hóa của chị Hồ Và C, sinh năm 1990 tại ấp 1, xã BL, thị xã LK, tỉnh Đồng Nai thì phát hiện không có người trông coi nên A vào trong lấy trộm 02 thùng bia Tiger loại 24 lon mang ra xe rồi đi ra hướng thị xã LK bán cho quán nhậu ven đường với giá 560.000 đồng.

Lần 2: Khoảng 10 giờ 30 phút, ngày 09/8/2018, A điều khiển xe mô tô biển số 60B3-197.45 đi trên đường HV. Khi đi ngang qua cửa hàng bia, nước ngọt LH do Chị Đỗ Phương L, sinh năm 1974 tại HV, khu phố 3, phường XB, thị xã LK, tỉnh Đồng Nai làm chủ thì phát hiện không có người trông coi nên A dừng xe trước cửa hàng rồi đi vào trong ôm 02 thùng bia Tiger loại 24 lon ra xe định bỏ chạy thì bị chị L phát hiện tri hô cùng mọi người bắt quả tang cùng tang vật.

Vật chứng thu giữ gồm: 02 thùng bia Tiger loại 24 lon; 01 xe mô tô biển số 60B3-197.45 và 01 xe mô tô biển số 60B6-240.66.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 235/HĐĐGTSTTTHS ngày 16/8/2018 và số 239/HĐĐGTSTTTHS ngày 28/8/2018, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã LK, tỉnh Đồng Nai kết luận:

- 02 thùng bia Tiger loại 24 lon, thời điểm tháng 7/2018 có giá trị 640.000 đồng.

- 02 thùng bia Tiger loại 24 lon, thời điểm ngày 30/3/2018 có giá trị 620.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 95/CT-VKSLK ngày 23/10/2018, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã LK đã truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc Minh A về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh nêu trên và đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo A từ 08 (tám) đến 10 (mười) tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo có trách nhiệm bồi thường cho chị Hồ Và C giá trị 02 thùng bia Tiger loại 24 lon là 620.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: Chị Đỗ Phương L đã nhận lại 02 thùng bia Tiger loại 24 lon và không yêu cầu gì thêm nên không đặt ra giải quyết.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Vision, biển số 60B3-197.45, đã trả cho chủ sở hữu là chị Phạm Thị Thu H.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Forehand, biển số 60B6-240.66 là tài sản của anh Nguyễn Thanh L, sinh năm 1982, ngụ tại ấp TB, xã BB, huyện CM, tỉnh Đồng Nai, bị kẻ gian lấy trộm năm 2016 nên Công an thị xã LK đã chuyển cho Công an huyện CM, tỉnh Đồng Nai giải quyết theo thẩm quyền.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Ngọc Minh A khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận tội này phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản nhận dạng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Để có tiền mua ma túy sử dụng và tiêu xài cá nhân, bị cáo A đã lợi dụng sự sơ hở của người quản lý tài sản để lén lút thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Mặc dù giá trị tài sản mỗi lần trộm cắp dưới 2.000.000 đồng nhưng tại thời điểm phạm tội bị cáo đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm. Do đó, hành vi của bị cáo Nguyễn Ngọc Minh A đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

[2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo đã bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đang trong thời gian tạm đình chỉ chấp hành nhưng không rèn luyện, tu dưỡng mà lại tái nghiện. Bị cáo có nhân thân xấu, có tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản. Vì vậy, cần cách ly bị cáo một thời gian đủ để tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét bị cáo thành khẩn khai báo, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Tại Bút lục số 75, người bị hại là chị Hồ Và C yêu cầu bị cáo bồi thường giá trị tài sản bị mất theo giá trị định giá tài sản là 620.000 đồng. Tại phiên tòa bị cáo đồng ý bồi thường theo yêu cầu của người bị hại nên ghi nhận.

[4] Về vật chứng: Chị Đỗ Phương L đã nhận lại 02 thùng bia Tiger loại 24 lon và không yêu cầu gì thêm nên không đặt ra giải quyết.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Vision, biển số 60B3-197.45, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thị xã LK đã trả cho chủ sở hữu là chị Phạm Thị Thu H nên không đặt ra giải quyết.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Forehand, biển số 60B6-240.66, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã LK đã chuyển cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện CM, tỉnh Đồng Nai giải quyết theo thẩm quyền.

[5] Quá trình khởi tố vụ án, khởi tố bị can, thực hiện các hành vi tố tụng và ban hành các quyết định tố tụng và truy tố của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã được thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Xét quan điểm của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã LK phù hợp với nhận định trên nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 173, Điểm h, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38; khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự; các Điều 584, 585, 586 và 589 Bộ luật dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc Minh A phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Ngọc Minh A 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 09 tháng 8 năm 2018.

2. Bị cáo có nghĩa vụ bồi thường cho chị Hồ Và C số tiền 620.000 đồng (sáu trăm hai mươi ngàn đồng).

3. Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chưa thanh toán xong số tiền trên thì hàng tháng còn phải trả thêm khoản lãi theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

Trường hợp bản án, quyết định này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

346
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 125/2018/HSST ngày 15/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:125/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Khánh - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:15/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về