Bản án 125/2018/HNGĐ-ST ngày 21/08/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 125/2018/HNGĐ-ST NGÀY 21/08/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 21 tháng 8 năm 2018 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 404/2018/TLST- HNGĐ ngày 08 tháng 6 năm 2018 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 140/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 7 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 101/2018/QĐST-HNGĐ ngày 09 tháng 8 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị T; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 4, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng; nơi ở hiện nay: Thôn 8, xã Q, huyện H, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt (có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T; địa chỉ: Thôn 4, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 30 tháng 5 năm 2018 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Hoàng Thị T trình bày:

Về hôn nhân: Chị Hoàng Thị T kết hôn với anh Nguyễn Văn T trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng vào ngày 12 tháng 3 năm 2010. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình vợ chồng không hòa hợp, cuộc sống chung không thống nhất, bất đồng quan điểm trong làm ăn kinh tế nên vợ chồng thường xảy ra cãi mắng, xúc phạm lẫn nhau. Bản thân anh T còn mải chơi, thiếu quan tâm chăm sóc gia đình, chị Thổng đã khuyên bảo nhiều lần nhưng anh T không thay đổi. Anh T đã vi phạm pháp luật và phải đi chấp hành án tại trại giam đến năm 2015 anh T trở về địa phương nhưng cuộc sống chung giữa chị và anh T ngày càng căng thẳng. Do mâu thuẫn, chị T đã bỏ về ăn ở tại nhà mẹ đẻ ở thôn 8, xã Q, huyện H, tỉnh Quảng Ninh và sống ly thân với anh T từ năm 2015 đến nay, không ai quan tâm đến ai. Mâu thuẫn vợ chồng chị T, anh T đã được gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Chị T nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Văn T.

Về con chung: Chị Hoàng Thị T và anh Nguyễn Văn T có 01 con chung tên Nguyễn Hoàng H, sinh ngày 05 tháng 01 năm 2011. Chị T là người trực tiếp nuôi con chung từ khi vợ chồng sống ly thân đến tháng 5 năm 2018 anh T đã đón cháu Nguyễn Hoàng H về xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng ăn ở, sinh sống cùng anh T. Khi ly hôn chị T đồng ý để anh T trực tiếp nuôi con chung như hiện nay. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung do chị và anh T tự thỏa thuận giao nhận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Hoàng Thị T và anh Nguyễn Văn T có tài sản chung nhưng tự thỏa thuận phân chia, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 22 tháng 6 năm 2018, bị đơn anh Nguyễn Văn Thêm trình bày:

Về hôn nhân: Anh Nguyễn Văn T thừa nhận lời khai của chị Hoàng Thị T về thời gian, điều kiện, hình thức kết hôn là đúng. Về nguyên nhân mâu thuẫn anh T cho rằng vợ chồng phát sinh mâu thuẫn từ năm 2013 do chị T có quan hệ với người khác, thiếu quan tâm chăm sóc gia đình, vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên thường xảy ra cãi mắng lẫn nhau, trong lúc thiếu kiềm chế anh T cũng có đánh chị T. Năm 2014 khi anh T vi phạm pháp luật và phải đi chấp hành án tại trại giam chị T chỉ đến thăm nom anh duy nhất một lần. Đến tháng 9 năm 2015 sau khi trở về địa phương anh T có tìm chị T nhiều lần nhưng chị T không về. Nay chị T xin ly hôn, anh T không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Anh Nguyễn Văn T trình bày anh và chị T có 01 con chung là Nguyễn Hoàng H, sinh ngày 05 tháng 01 năm 2011. Hiện con chung đang ở cùng anh T. Trường hợp chị T kiên quyết ly hôn anh T đề nghị Tòa án cho anh được trực tiếp nuôi con chung. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung anh T không yêu cầu chị Hoàng Thị T cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Anh T trình bày anh và chị T không có tài sản chung, nhà và đất là của bố mẹ anh nên anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không thực hiện đúng theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147 và Điều228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn xử cho ly hôn giữa chị Hoàng Thị T và anh Nguyễn Văn T. Giao con chung Nguyễn Hoàng H, sinh ngày 05 tháng 01 năm 2011 cho anh Nguyễn Văn T trực tiếp nuôi đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung và tài sản chung chị T, anh T không yêu cầu nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết. Chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Các tài liệu, chứng cứ do đương sự cung cấp và Tòa án thu thập gồm: Trích lục kết hôn, bản sao sổ hộ khẩu, bản sao giấy chứng minh nhân dân; trích lục khai sinh của con; Bản tự khai; Biên bản lấy lời khai; Biên bản xác minh tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng và gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại thời điểm Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, bị đơn là anh Nguyễn Văn T đang cư trú tại thôn 4, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng. Vì vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguyên đơn là chị Hoàng Thị T vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Bị đơn là anh Nguyễn Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Hoàng Thị T và anh Nguyễn Văn T.

 [2] Về hôn nhân: Chị Hoàng Thị T và anh Nguyễn Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng vào ngày 12 tháng 3 năm 2010 là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn. Theo tài liệu xác minh tại địa phương và gia đình thể hiện nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, cuộc sống chung không thống nhất, bất đồng quan điểm, làm ăn kinh tế gặp nhiều khó khăn dẫn đến thường xuyên cãi mắng, xúc phạm, đánh nhau. Mâu thuẫn vợ chồng chị T, anh T đã được gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn chị T đã bỏ về nhà mẹ đẻ tại thôn 8, xã Q, huyện H, tỉnh Quảng Ninh từ năm 2015 và sống ly thân với anh T từ đó đến nay, không ai quan tâm đến ai. Mặt khác, quá trình giải quyết vụ án anh Nguyễn Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh T đều vắng mặt không có lý do, thể hiện anh T không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng với chị T và không mong muốn Tòa án hòa giải để vợ chồng đoàn tụ. Điều này thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị Hoàng Thị T và anh Nguyễn Văn T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được, khả năng vợ chồng về đoàn tụ không còn. Việc anh Nguyễn Văn T không đồng ý ly hôn chỉ nhằm mục đích gây khó khăn cho chị Hoàng Thị T. Vì vậy, căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, xử cho chị Hoàng Thị T được ly hôn anh Nguyễn Văn T.

 [3] Về con chung: Chị Hoàng Thị T và anh Nguyễn Văn T có 01 con chung là Nguyễn Hoàng H, sinh ngày 05 tháng 01 năm 2011. Khi ly hôn anh T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con chung. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần xem xét mọi mặt và đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên. Xét anh T hiện là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung và vẫn đảm bảo tốt về mọi mặt; cháu Nguyễn Hoàng H có nguyện vọng ở với bố; chị Hoàng Thị T cũng đồng ý để anh T trực tiếp nuôi dưỡng con chung như hiện nay nên căn cứ Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình giao cháu Nguyễn Hoàng H cho anh Nguyễn Văn T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung chị T đề nghị để chị và anh T tự thỏa thuận giao nhận với nhau, anh T không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

 [4] Về tài sản chung: Chị Hoàng Thị T trình bày chị và anh Nguyễn Văn T tự thỏa thuận phân chia tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh Nguyễn Văn T trình bày anh và chị Thổng không có tài sản chung, nhà đất là của bố mẹ anh. Do các đương sự không có yêu cầu Tòa án giải quyết tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này, khi các đương sự có yêu cầu sẽ giải quyết việc chia tài sản bằng một vụ án khác.

 [5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Hoàng Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147; khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Hoàng Thị T và anh Nguyễn Văn T.

2. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Hoàng H, sinh ngày 05 tháng 01 năm 2011 cho anh Nguyễn Văn T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Hoàng Thị T và anh Nguyễn Vă T tự thỏa thuận giao nhận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Về án phí: Chị Hoàng Thị T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009090 ngày 08 tháng 6 năm 2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên. Chị Hoàng Thị T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Hoàng Thị T và anh Nguyễn Văn T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án do Tòa án tống đạt hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 125/2018/HNGĐ-ST ngày 21/08/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:125/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về