Bản án 124/2020/HS-PT ngày 03/03/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 124/2020/HS-PT NGÀY 03/03/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 03 tháng 3 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 32/2020/TLPT-HS ngày 07 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo Lê Khải Đ do có kháng cáo của bị cáo Đ đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 185/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 của Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo:

Lê Khải Đ (tên gọi khác: Thúi Anh); Sinh ngày 30/11/1998 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 792/851 Ba Đ, Phường K, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Làm công; Trình độ văn hóa: Không biết chữ; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Khải Đ và bà Võ Ngọc Thu V; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: Tại Bản án số 199/2017/HSST ngày 18/7/2017 của Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 04 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp với hình phạt 08 tháng 07 ngày tù về tội “Trộm cắp tài sản” của Bản án 308/2015/HSST ngày 24/12/2015 của Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 02 năm 07 ngày tù (Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 23/01/2019) Tiền sự: Không;

Bị bắt, tạm giam từ ngày 21/5/2019 - Có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có các bị cáo Lê Khải D, Nguyễn Văn Hoàng S không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 02 giờ, ngày 05/3/2019, Nguyễn Văn Hoàng S và Nguyễn Hoàng Q (S và Q là anh em ruột) đang ngồi tại trước nhà số 96 Ba đình, Phường 10, Quận 8 thì Lê Khải D và Lê Khải T (D1 và T là anh em ruột) đến và D rủ thì S và Q đồng ý cùng nhau đi trộm cắp dây điện tại các công trình xây dựng. Khi cả nhóm đi đến trước nhà của anh Đỗ Văn T1 (số 16 lô 4 Hưng Phú, Phường 10, Quận 8) thì D1 phát hiện nhà anh Thuận khép cửa nhưng không khóa ; D1 đến nhìn vào nhà thì phát hiện bên trong nhà dựng nhiều xe gắn máy, nên D1 gọi rủ Lê Khải Đ (anh ruột của D1 và T) đến trộm cắp xe gắn máy thì Đ đồng ý và điều khiển xe gắn máy loại Dream, biển số 52Z8 - 4585 đến dừng trước nhà anh Thuận. Lúc này, Đ kêu Quý vào lấy trộm xe, nhưng Quý không dám vào và bỏ đi. Đ kêu S và T về nhà S lấy áo Grab cho Đ mặc để tránh bị phát hiện. Trong lúc S và T đi lấy áo thì Đ đứng ngoài cảnh giới cho D1, còn D1 mở cửa vào nhà anh T1 lấy trộm chiếc xe gắn máy SH 150I, biển số: 60B1 - 163.20 cùng chìa khóa xe để trên ghế gần đó rồi dẫn xe ra ngoài nổ máy tẩu thoát trước và hẹn gặp tai vòng xoay Phú Lâm, Quận 6. Sau đó, S và T quay lại đưa chiếc áo Grab cho Đ mặc. S và T đứng bên ngoài cảnh giới cho Đ vào nhà lấy trộm chiếc xe gắn máy Lead, biển số: 60B8 - 117.27 dẫn ra ngoài dùng đoản bẻ khóa xe rồi nổ máy bỏ chạy được một đoạn thì giao xe cho S điều khiển, còn Đ điều khiển xe Dream, biển số 52Z8 - 4585 chở T chạy theo sau. Trên đường đi, Đ gọi điện thoại cho Trần Minh T3 kêu T3 cầm chiếc xe SH150I, biển số: 60B1 - 163.20 thì T3 đồng ý. Sau đó, Đ điều khiển xe SH150I, biển số: 60B1 - 163.20 đến trước Chợ Phú Lâm số 56 Bà Hom, Phường 13, Quận 6 gặp T3 và thỏa thuận cầm chiếc xe trên với giá 11.500.000 đồng. Sau khi có được tiền, Đ giấu riêng 1.000.000 đồng rồi đi đến gặp và nói cho S, T và D1 biết vừa cầm xe được 10.500.000 đồng. Sau đó, Đ điều khiển xe Dream, biển số 52Z8 - 4585, D1 điều khiển xe Lead, biển số: 60B8 - 117.27 đến gửi xe Lead tại bãi giữ xe chợ Phú Lâm, Quận 6, còn S và T về quán cà phê lề đường Nguyễn Duy, Phường 9, Quận 8 đợi Đ và D1 về để chia tiền. Tại đây, Đ lấy tiền đưa cho T 200.000 đồng chơi game, chia cho D1 5.000.000 đồng tiền cầm xe (D1 chia lại cho S 1.000.000, chia cho T 2.000.000 đồng, còn lại 2.000.000 đồng D1 hưởng), còn lại 5.500.000 đồng Đ hưởng.

Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày 05/3/2019, Đ điều khiển xe gắn máy Dream, biển số 52Z8 - 4585 chở S đến lấy xe Lead, biển số 60B8 - 117.27 mang đi tiêu thụ. Khi cả hai đến trước số 128 - 129 Bà Hom, Phường 13, Quận 6 thì bị Đội 4 - Phòng Cảnh sát hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh tuần tra phát hiện nghi vấn nên đưa về trụ sở Công an Phường 13, Quận 8 làm rõ.

Ngày 06/12/2019, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 8 kết luận: Trị giá còn lại của 01 chiếc xe gắn máy loại SH 150I, biển số: 60B1 - 163.20 là 114.000.000 đồng. Trị giá còn lại của 01 xe gắn máy loại Honda Lead, biển số: 60B8 - 117.27 là 11.000.000 đồng.

Tại Bản án số: 185/2019/HS-ST ngày 27-11-2019 của Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh đã Quyết định:

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 173; Điều 58; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt bị cáo Lê Khải Đ 04 (bốn) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 21/5/2019.

Ngoài ra Bản án còn tuyên phạt các bị cáo Lê Khải D, Nguyễn Văn Hoàng S cùng về tội “Trộm cắp tài sản”, giải quyết phần dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

Ngày 03/12/2019, bị cáo Lê Khải Đ có đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Khải Đ giữ nguyên yêu cầu kháng cáo như đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi phân tích tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, mức hình phạt là thỏa đáng. Do đó đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên án sơ thẩm.

Bị cáo Đ không tự bào chữa và tranh luận gì thêm.

Lời nói sau cùng: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về hòa nhập xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo Lê Khải Đ về nội dung quyền kháng cáo và thời hạn kháng cáo thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét giải quyết đơn kháng cáo của bị cáo theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an Quận 8, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân Quận 8, Thẩm phán, Thư ký Tòa án trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Căn cứ lời khai của bị cáo Lê Khải Đ tại phiên tòa phúc thẩm, cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở xác định:

Vào khoảng 02 giờ 30 phút, ngày 05/3/2019 tại nhà số 16 lô 4 đường Hưng Phú, Phường 10, Quận 8, Lê Khải Đ cùng đồng bọn đã có hành vi lén lút chiếm đoạt của bị hại Đỗ Văn T 01 xe mô tô hiệu Honda SH, biển số 60B1 - 163.20 và 01 xe mô tô hiệu Honda Lead, biển số 60B8-117.27. Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt được định giá là 125.000.000 (một trăm hai mươi lăm triệu) đồng. Bản án hình sự sơ thẩm số185/2019/HS-ST ngày 27-11-2019 của Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh đã áp dụng điểm a khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Lê Khải Đ là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan sai.

[4] Về nội dung kháng cáo của bị cáo Lê Khải Đ, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy: Khi xét xử Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo nên mức hình phạt 04 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt là thỏa đáng, không nặng. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng tại phiên tòa phúc thẩm không trình bày được tình tiết gì mới để Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xem xét. Mặt khác, bị cáo là người có tiền án về cùng hành vi “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nên cần có mức hình phạt nghiêm như cấp sơ thẩm đã tuyên mới đủ thời gian giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Do đó, xét chấp nhận lời đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên Bản án sơ thẩm đã tuyên.

[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Khải Đ và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt bị cáo Lê Khải Đ 04 (bốn) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 21/5/2019.

Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, Buộc bị cáo Lê Khải Đ nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

263
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 124/2020/HS-PT ngày 03/03/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:124/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về