Bản án 124/2018/HSST ngày 11/09/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH – THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 124/2018/HSST NGÀY 11/09/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân Huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 125/2018/TLST-HS ngày 13 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 128/2018/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trịnh Khắc C - Sinh năm 1985. Hộ khẩu thường trú và nơi ở: Thôn Đại Đ, Xã Đại M, Huyện Đ, Thành phố Hà Nội. Nghề nghiệp: Làm ruộng. Trình độ văn hóa: 10/12. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Con ông: Trịnh Khắc T và bà: Đặng Thị S. Vợ: Nguyễn Thị G (Bỏ đi biệt tích từ năm 2014), có 02 con: Lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2013. Tiền án: Không. Tiền sự: Không. Bị cáo không phải là đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Tạm giữ từ ngày 15/6/2018 đến ngày 21/6/2018. Tạm giam: Không. Hiện đang áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Danh, chỉ bản số 369 ngày 19/6/2018 của công an huyện Đ, Hà Nội. Có mặt.

- Người bị hại: Ông Phạm Văn K, sinh năm 1964.

Trú tại: Thôn Đại Đ, Xã Đại M, Huyện Đ, Thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Phạm Nhật L, sinh năm 1994.

Trú tại: Thôn Đại Đ, Xã Đại M, Huyện Đ, Thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tại cáo trạng số 122/VKS-HS ngày 08 tháng 8 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, thành phố Hà Nội đã truy tố Trịnh Khắc C về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi trộm cắp chiếc xe máy BKS: 29S1-758.51 của ông Phạm Văn K.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ giữ quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích nội dung, tính chất của vụ án, một lần nữa khẳng định việc truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật như cáo trạng đã nêu là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, năm 2015, xử phạt: Trịnh Khắc C với mức án từ 10 đến 12 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung.

Về phần dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản, không còn yêu cầu gì nên không phải đặt ra để giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

{1} Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Vì vậy, các quyết định, hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

{2} Tại phiên toà bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong quá trình điều tra vụ án. Do đó xác định được: Khoảng 20 giờ 10 phút ngày 14/6/2018 tại nhà ông Phạm Văn Mở thôn Đại Đ, xã Đại M, huyện Đ, Hà Nội, Trịnh Khắc C có hành vi lén lút trộm cắp chiếc xe máy Honda Airblade, màu đen, BKS: 29S1-758.51 của ông Phạm Văn K trị giá 43.000.000 đồng. Vì vậy, đủ cơ sở kết luận bị cáo Trịnh Khắc C phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự, điều khoản này quy định hình phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì chẳng những đã xâm phạm đến trật tự công cộng, trật tự pháp luật, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, mà còn gây mất trật tự trị an xã hội trên địa bàn huyện Đ. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Song do tham lam tư lợi và coi thường pháp luật nên bị cáo vẫn cố tình phạm tội.

{2.1} Về nhân thân và tình tiết tăng nặng: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, không có tình tiết tăng nặng.

{2.2}Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo đã thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, tài sản đã được thu hồi trả lại cho người bị hại; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng (Bị cáo nhất thời nảy sinh thực hiện hành vi phạm trộm). Hoàn cảnh gia đình bị cáo có nhiều khó khăn: Gia đình bị cáo thuộc diện hộ nghèo theo quy định, vợ bỏ đi biệt tích từ năm 2014, hiện bị cáo là lao động duy nhất phải trực tiếp nuôi 02 con nhỏ, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, ổn định. Người bị hại có đơn đề nghị miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Do đó, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 chiếu cố cho bị cáo được cải tạo ngoài xã hội để có điều kiện lao động và nuôi các con còn nhỏ, thể hiện tính nhân đạo của pháp luật..

{3} Về phần bồi thường dân sự: Người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã nhận lại tài sản, không còn yêu cầu gì về phần bồi thường dân sự nên Hội đồng xét xử không phải đặt ra để giải quyết.

{4} Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật sung công quỹ nhà nước.

{5} Về quyền kháng cáo: Những người tham gia tố tụng có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trịnh Khắc C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt: Trịnh Khắc C 15 (Mười lăm) tháng tù cho hưởng án treo. Thời hạn thử thách 30 tháng kể từ ngày tuyên án.

Giao Trịnh Khắc C cho Ủy ban nhân dân xã Đại M, huyện Đ, thành phố Hà Nội giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách bản án.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú trong phạm vi huyện Đ, thành phố Hà Nội thì Ủy ban nhân dân xã Đại M, huyện Đ có trách nhiệm thông báo cho cơ quan thi hành án hình sự huyện Đ để làm thủ tục chuyển giao hồ sơ thi hành án treo cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người được hưởng án treo đến cư trú để giám sát, giáo dục.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú ngoài phạm vi huyện Đ, thành phố Hà Nội thì cơ quan thi hành án hình sự huyện Đ có trách nhiệm làm thủ tục chuyển hồ sơ thi hành án treo cho cơ quan thi hành án hình sự cấp huyện nơi người được hưởng án treo đến cư trú để tổ chức việc thi hành án treo theo quy định của Luật thi hành án Hình sự và thông báo bằng văn bản cho Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

- Căn cứ Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án; Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước.

Án xử công khai, sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chỉ có quyền kháng cáo về phần tài sản có liên quan.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 124/2018/HSST ngày 11/09/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:124/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Anh - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về