Bản án 124/2018/HNGĐ-ST ngày 20/08/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 124/2018/HNGĐ-ST NGÀY 20/08/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 20 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 429/2018/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 6 năm 2018 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 156/2018/QĐXX-ST ngày 30 tháng 7 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 103/2018/QĐST-HNGĐ ngày 13 tháng 8 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị H, sinh năm 1984; địa chỉ: Thôn T, xã D, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Anh Phạm Đình T, sinh năm 1983; địa chỉ: Thôn 5, xã H, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 07/5/2018, và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, chị Lê Thị H (nguyên đơn) khai:

Về hôn nhân: Chị Lê Thị H và anh Phạm Đình T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn số 85 ngày 06 tháng 11 năm 2009 tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện T, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong sinh hoạt, trong lao động, chăm sóc con chung dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng lẫn nhau. Anh T đã nhiều lần đánh đập chị H gây thương tích. Do mâu thuẫn, chị H đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở, vợ chồng hiện đã sống ly thân nhau. Nay chị H nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Phạm Đình T.

Về con chung: Chị Lê Thị H khai: Chị và anh Phạm Đình T có 02 con chung là Phạm Thị Như Q, sinh ngày 25 tháng 8 năm 2010 và Phạm Gia B, sinh ngày 15 tháng 7 năm 2014. Trường hợp ly hôn, chị H có nguyện vọng mỗi bên nuôi dưỡng một con và không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Chị Lê Thị H khai: Chị và anh Phạm Đình T không có tài sản chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là anh Phạm Đình T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác theo quy định của pháp luật song đến ngày mở phiên tòa, anh T vẫn không có mặt để trình bày ý kiến về việc chị H xin ly hôn.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn thực hiện chưa đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Tài liệu điều tra thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị Lê Thị H và anh Phạm Đình T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị Lê Thị H và anh Phạm Đình T được ly hôn. Về con chung: Chị Lê Thị H và anh Phạm Đình T có 02 con chung là Phạm Thị Như Q, sinh ngày 25 tháng 8 năm 2010 và Phạm Gia B, sinh ngày 15 tháng 7 năm 2014. Đề nghị Tòa án căn cứ tài liệu điều tra xác minh hiện trạng nuôi con, khả năng, điều kiện nuôi con của mỗi bên và căn cứ Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình giao cho mỗi bên trực tiếp nuôi dưỡng một con cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung và tài sản chung, nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết trong vụ án này.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn chị Lê Thị H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn anh Phạm Đình T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ khoản 1; khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị H và anh T.

[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Lê Thị H và anh Phạm Đình T được xác lập năm 2009 là hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Tài liệu điều tra thể hiện: Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong sinh hoạt, lao động và chăm sóc con chung. Mặt khác, anh T không chịu khó làm ăn, thiếu quan tâm chăm sóc gia đình nên vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng lẫn nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn, chị H đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở tại xã Dương Quan, huyện T từ năm 2016 đến nay. Chị H xin ly hôn anh T, Tòa án đã triệu tập anh T nhiều lần để trình bày ý kiến về việc chị H xin ly hôn nhưng anh anh T vẫn vắng mặt không có lý do.

Điều này thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn xử cho chị H và anh T được ly hôn.

[3] Về con chung: Chị Lê Thị H và anh Phạm Đình T có 02 con chung là Phạm Thị Như Q, sinh ngày 25 tháng 8 năm 2010 và Phạm Gia B, sinh ngày 15 tháng 7 năm 2014. Hiện anh T đang nuôi con. Khi ly hôn, chị H đề nghị Tòa án giao cho mỗi bên nuôi một con chung. Tuy nhiên việc giao con chung cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt và đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên. Xét thấy, chị H và anh T đều có việc làm và thu nhập ổn định để thực hiện việc chăm sóc nuôi dưỡng con chung. Cháu Phạm Thị Như Q có nguyện vọng được ở với bố. Vì vậy, giao cho anh Phạm Đình T trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Phạm Thị Như Q và giao cho chị Lê Thị H được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Phạm Gia B cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở là phù hợp với Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Lê Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết trong vụ án này.

[5] Về tài sản chung: Chị H khai không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết trong vụ án này.

[6] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì chị Lê Thị H phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 1 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Lê Thị H và anh Phạm Đình T.

2. Về con chung: Giao cho chị Lê Thị H trực tiếp nuôi dưỡng con Phạm Gia B, sinh ngày 15 tháng 7 năm 2014. Giao cho anh Phạm Đình T trực tiếp nuôi dưỡng con Phạm Thị Như Q, sinh ngày 25 tháng 8 năm 2010 cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Lê Thị H phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0009035 ngày 29 tháng 5 năm 2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng, chị Lê Thị H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Chị Lê Thị H và anh Phạm Đình T có quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án giao cho chị H, anh T hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 124/2018/HNGĐ-ST ngày 20/08/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:124/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về