Bản án 123/2020/HS-ST ngày 22/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HD - TỈNH HD

BẢN ÁN 123/2020/HS-ST NGÀY 22/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố HD, tỉnh HD mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 126/2020/HSST ngày 08/9/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 117/2020/QĐXXST-HS ngày 10/9/2020 đối với bị cáo:

Chu Thị Tr, sinh năm: 1971; ĐKHKTT: số 10/104 Phạm Ngũ Lão, phường Phạm Ngũ Lão, thành phố HD, tỉnh HD; nơi cư trú: số 19/20 Ngô Quyền, phường Thanh Bình, thành phố HD, tỉnh HD; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Chu Văn L - sinh năm: 1929 (đã chết) và bà: Trần Thị G - sinh năm: 1937; chồng: anh Nguyễn Tuấn A- sinh năm: 1970 (đã ly hôn); bị cáo có 02 con; con lớn- sinh năm: 2004; con nhỏ- sinh năm: 2006; tiền án: không; tiền sự: ngày 01/4/2020, Công an thành phố HD ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 181/QĐ-XPHC đối với Chu Thị Tr về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy bằng hình thức phạt tiền với số tiền 750.000 đồng; biện pháp ngăn chặn: Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 15/7/2020, chuyển tạm giam từ ngày 17/7/2020 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh HD. Có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng:

1. Anh Tăng Văn V, sinh năm: 1973.

Đa chỉ: số nhà 98, khu 18, phường Ngọc Châu, thành phố thành phố HD, tỉnh HD. Vắng mặt tại phiên tòa.

2. Anh Nguyễn Quốc V, sinh năm: 1996.

Đa chỉ: Tập thể B2 Bình Minh, khu 7, phường Phạm Ngũ Lão, thành phố HD, tỉnh HD. Vắng mặt tại phiên tòa.

3. Ông Đào Ngọc O, sinh năm: 1952.

Đa chỉ: số 23 Ngô Quyền, phường Thanh Bình, thành phố HD, tỉnh HD. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 20 giờ 00’ngày 15/7/2020, tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố HD phối hợp với Công an phường Thanh Bình - thành phố HD kiểm tra phòng trọ của Chu Thị Tr ở số 19/20 Ngô Quyền, phường Thanh Bình, thành phố HD, tỉnh HD và thu giữ trên thành cửa sổ trong phòng trọ của Trinh 02 gói nilon màu trắng có kích thước là (1,5 x1,5)cm (1,5 x 2) cm, bên trong mỗi gói đều chứa tinh thể màu trắng. Tr khai nhận đó là ma túy tổng hợp, mục đích cất giấu để sử dụng. Quá trình bắt giữ có sự chứng kiến của anh Tăng Văn V, sinh năm 1973 ở khu 18 phường Ngọc Châu, thành phố HD; anh Nguyễn Quốc V, sinh năm 1996 ở tập thể B2 Bình Minh, khu 7, phường Phạm Ngũ Lão, thành phố HD và ông Đào Ngọc O, sinh năm 1952 ở số 23 Ngô Quyền, phường Thanh Bình, thành phố HD.

Quá trình điều tra đã làm rõ: Khoảng 19 giờ 00’ngày 15/7/2020, Chu Thị Tr đi đến khu vực cầu Phú Lương, thành phố HD tìm mua ma túy để sử dụng. Tại đây, Tr gặp và mua của một nam thanh niên (không rõ tên, tuổi, địa chỉ) 02 gói ma túy tổng hợp với số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng). Sau đó, Tr mang số ma túy cất giấu tại thành cửa sổ phòng trọ ở số 19/20 Ngô Quyền, phường Thanh Bình, thành phố HD, tỉnh HD mục đích để sử dụng. Khoảng 19 giờ 30’cùng ngày, khi Tr đang ở phòng trọ thì các anh Tăng Văn V và anh Nguyễn Quốc V (là bạn của Tr ) đến chơi. Đến khoảng 20 giờ 00’cùng ngày, khi anh V , anh V và Tr đang ngồi chơi tại phòng trọ thì Tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố HD phối hợp với Công an phường Thanh Bình kiểm tra, thu giữ trên thành cửa sổ trong phòng trọ của Tr 02 gói nilon màu trắng có kích thước là (1,5x1,5)cm (1,5x2)cm, bên trong mỗi gói đều chứa tinh thể màu trắng.

Quá trình bắt giữ có sự chứng kiến của các anh Tăng Văn V , anh Nguyễn Quốc V và ông Đào Ngọc O .

Tại Kết luận giám định số: 323/KLGĐ - PC09 ngày 18 tháng 7 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh HD kết luận: “Chất rắn (dạng tinh thể) màu trắng niêm phong trong phong bì ghi thu của Chu Thị Tr, gửi đến giám định khối lượng là: 0,596 gam, là ma túy, loại Methamphetamine”.

Methamphetamine nằm trong Danh mục II, STT: 323; Nghị định: 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính Phủ”.

Về vật chứng: Đối với 0,512 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định đựng trong phong bì niêm phong số 323/KLGĐ - PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh HD được quản lý tại kho vật chứng của Công an thành phố HD và chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố HD chờ xử lý theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội và không có ý kiến hay khiếu nại gì về Kết luận giám định nêu trên.

Tại Cáo trạng số: 125/CT-VKSTPHD ngày 07 tháng 9 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố HD truy tố bị cáo Chu Thị Tr về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố HD thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm như đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Về tội danh: Tuyên bố: bị cáo Chu Thị Tr phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Về hình phạt: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Chu Thị Tr từ 18 đến 21 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 15/7/2020. Về hình phạt bổ sung: không áp dụng. Về xử lý vật chứng: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: tịch thu, tiêu hủy 0,512 gam Methamphetamine là mẫu vật hoàn lại sau giám định được đựng trong 01(một) phong bì niêm phong số 323/KLGĐ-PC09 được dán kín của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh HD (có đặc điểm theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an thành phố HD và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố HD ngày 09 tháng 9 năm 2020).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016, buộc bị cáo Chu Thị T phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo nói lời sau cùng: đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu điều tra khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 20h00’ngày 15/7/2020, tại phòng trọ ở số 19/20 Ngô Quyền, phường Thanh Bình, thành phố HD, tỉnh HD, Chu Thị TR đang có hành vi cất giấu trái phép 0,596 gam Methamphetamine với mục đích để sử dụng thì bị Tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố HD phối hợp với Công an phường Thanh Bình trong khi làm nhiệm vụ kiểm tra phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được ma túy là chất gây nghiện bị Nhà nước cấm tàng trữ, có tác hại lớn đến sức khỏe con người và là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác trong xã hội. Việc bị cáo cất giấu trái phép 0,596 gam Methamphetamine để sử dụng là vi phạm pháp luật nhưng với mục đích thỏa mãn cơn nghiện, ý thức coi thường pháp luật nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố HD truy tố bị cáo Tr về tội danh trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền về việc quản lý các chất ma túy của Nhà nước; xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, cần có mức hình phạt nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo nói riêng và phòng ngừa chung trong xã hội.

[3] Xét bị cáo có nhân thân xấu, có một tiền sự: ngày 01/4/2020, Công an thành phố HD ra Quyết định xử phạt hành chính đối với bị cáo về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy bằng hình thức phạt tiền. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bố đẻ bị cáo được Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng Nhất nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử sẽ xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện sự nhân đạo của pháp luật. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử thấy vẫn cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập và tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Đối với 0,512 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ thì bị tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[6] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Đối với các anh Tăng Văn V và Nguyễn Quốc V không biết việc Trinh cất giấu trái phép chất ma túy; không làm rõ được người bán trái phép chất ma túy cho Trinh nên không có căn cứ xử lý.

[8] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố HD, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố HD, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51; điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số: 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016.

1. Tuyên bố: bị cáo Chu Thị Tr phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: bị cáo Chu Thị Tr 21 (hai mươi mốt) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 15/7/2020.

2.Về xử lý vật chứng: tịch thu, tiêu hủy 0,512 gam Methamphetamine là mẫu vật hoàn lại sau giám định được đựng trong 01(một) phong bì niêm phong số 323/KLGĐ-PC09 được dán kín của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Hải Dương (có đặc điểm theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an thành phố HD và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố HD ngày 09 tháng 9 năm 2020).

3. Về án phí: buộc bị cáo Chu Thị Tr phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: bị cáo Chu Thị Tr được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

261
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 123/2020/HS-ST ngày 22/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:123/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:22/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về