Bản án 123/2020/HS-ST ngày 03/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ - TỈNH QUẢNG NINH

 BẢN ÁN 123/2020/HS-ST NGÀY 03/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Trong ngày 03 tháng 12 năm 2020, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 116/2020/TLST- HS ngày 06 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 114/2020/QĐXXST- HS ngày 17 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Bùi Văn H, sinh ngày 03 tháng 8 năm 1996; tại thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh; Nơi cư trú: khu Đ, phường T, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch; Việt Nam; con ông Bùi Văn Q (đã chết) và bà Vũ Thị P, sinh năm 1970; vợ là Ngô Thị Thúy H và có 01 con sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt quả tang ngày 10-8-2020, đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, có mặt tại phiên tòa.

- Người chứng kiến:

1. Anh Lê Quyết Th, sinh năm 1995; nơi cư trú: khu B, phường Phương Đông, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt tại phiên tòa.

2. Chị Phạm Thị H, sinh năm 1973; nơi cư trú: khu B, phường Phương Đông, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Ngày 08-8-2020, Bùi Văn H cùng T (là bạn xã hội, không rõ lai lịch, địa chỉ) thuê phòng số 304, nhà nghỉ Thế Phong thuộc tổ 6, khu B, phường Phương Đông, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, mục đích để nghỉ và cùng nhau sử dụng mua túy. Khoảng 02 giờ ngày 09-8-2020, T mượn xe mô tô BKS 16F8-4395 của H đi ra ngoài. Sau đó T gọi điện bảo H đã cầm đồ chiếc xe mô tô được 2.500.000 đồng, H đồng ý. Số tiền này T mua một ít ma túy để cùng H sử dụng, còn lại T cầm tiêu sài cá nhân. Đến khoảng 09 giờ ngày 10-8-2020, T nhắn tin bảo H chiếc xe còn cầm thêm được 1.500.000 đồng, bảo H đến ngã tư đèn xanh đèn đỏ, đoạn rẽ lên cổng Bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển để lấy tiền và mua ma túy về cùng sử dụng. Sau đó có một người thanh niên không quen biết gọi điện cho H hướng dẫn đến nơi nhận tiền. H bắt xe taxi đến khu vực trên thì gặp người thanh niên này, người này đưa cho H 1.000.000 đồng và 500.000 đồng ma túy đá được đựng trong 01 bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long màu vàng. Tin tưởng là ma túy đá cần mua, H cầm tiền và bao thuốc lá cất giấu vào túi quần phía trước bên phải rồi bắt taxi quay lại nhà nghỉ Thế Phong, trên đường đi H có dừng lại mua một số thẻ Game để chơi. Khi về đến quầy tiếp tân của nhà nghỉ thì bị Công an tiến hành kiểm tra phát hiện thu giữ: Tại túi quần phía trước bên phải của H 01 vỏ bao thuốc lá màu vàng nhãn hiệu Thăng Long bên trong có 01 túi nilon màu trắng, kích thước (1,5 x 1,5)cm, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng. Ngoài ra Công an còn thu giữ: 01 điện thoại di động nhãn hiệu VSMART màu xanh đen có gắn sim và số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).

Cùng ngày Cơ quan CSĐT Công an thành phố Uông Bí đã tiến hành kiểm tra phòng nghỉ 304, nhà nghỉ Thế Phong có địa chỉ tại tổ 6, khu B, phường Phương Đông, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, quá trình kiểm tra đã phát hiện, thu giữ: 01 ống thủy tinh màu trắng dài khoảng 10cm một đầu thẳng, một đầu uốn cong có bầu tròn, bên trong bầu tròn có dính chất dạng vết màu đen.

Tại bản Kết luận giám định số 1106/GĐMT ngày 14 tháng 8 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Mẫu vật gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng như sau: Chất tinh thể màu trắng là 0,363 gam; chất màu đen dạng vết không xác định được khối lượng.

Tại Cáo trạng số 119/CT - VKSUB ngày 06-11-2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí đã truy tố Bùi Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Người chứng kiến anh Lê Quyết T và chị Phạm Thị H vắng mặt tại phiên tòa nH cũng có lời khai thể hiện làm chứng việc Công an thành phố Uông Bí đã tiến hành kiểm tra phòng nghỉ 304, nhà nghỉ Thế Phong có địa chỉ tại Tổ 6, khu B, phường Phương Đông, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, quá trình kiểm tra đã phát hiện, bắt qua tang Bùi Văn H có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy để sử dụng.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí giữ nguyên quyết định truy tố đối với Bùi Văn H theo bản Cáo trạng. Sau khi xem xét đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Văn H với mức hình phạt từ 12 (Mười hai) tháng đến 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, ngày 10-8- 2020; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng, áp dụng: Điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1; điểm a khoản 2 và diểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị HĐXX:

+ Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 1106/KLGĐ ngày 14-8-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh hoàn lại sau giám định; 01 sim điện thoại số 0879.563.625.

+ Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu VSMART màu xanh đen là phương tiện phạm tội của bị cáo.

+ Trả lại bị cáo Bùi Văn H số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).

Bị cáo không tranh luận với luận tội của Đại diện Viện kiểm sát và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tài liệu chứng cứ trong hồ sơ; về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Uông Bí, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về tài liệu chứng cứ trong hồ sơ, về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, tài liệu chứng cứ trong hồ sơ, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về việc định tội: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai xác nhận của những người chứng kiến và nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ của bị cáo, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 09 giờ 35 phút ngày 10-8- 2020, tại nhà nghỉ Thế Phong thuộc tổ 6, khu B, phường Phương Đông, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, Bùi Văn H bị bắt quả tang khi đang thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,363g (Không phẩy ba trăm sáu mươi ba gam) ma túy loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về hình phạt:

[3.1] Hình phạt chính:

Bị cáo Bùi Văn H tàng trữ trái phép 0,363g (Không phẩy ba trăm sáu mươi ba) gam ma túy Methamphetamine, tội danh và mức hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 là từ 01 (một) năm đến 05 (năm) năm tù.

Xét về nhân thân: Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, lần đầu phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Để tăng cường biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm nói chung cũng như để giáo dục, cải tạo riêng đối với bị cáo cần có một hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để bị cáo cai nghiện và sửa chữa lỗi lầm của bản thân.

[3.2] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ (Năm triệu đồng) đến 500.000.000đ (Năm trăm triệu đồng). Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng:

+ Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 1106/KLGĐ ngày 14-8-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, bên trong chứa mẫu vật hoàn lại sau giám định là chất Nhà nước cấm vận chuyển, lưu hành bất hợp pháp 01 sim điện thoại số 0879.563.625 không còn giá trị sử dụng.

+ Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu VSMART màu xanh đen là phương tiện phạm tội của bị cáo.

+ Trả lại bị cáo Bùi Văn H 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) là tài sản của bị cáo không liên quan đến tội phạm.

(Tình trạng và đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 01 tháng 12 năm 2020 giữa Công an thành phố Uông Bí và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Uông Bí) .

[5] Về các vấn đề khác:

Đối với người đàn ông tên T và người đàn ông bán ma túy cho bị cáo Bùi Văn H, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của những người đó nên không có căn cứ xử lý.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Từ nhận định trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Bùi Văn H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt bị cáo Bùi Văn H 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ: 10-8-2020.

2. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng: Điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Khoản 1; Điểm a khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 1106/KLGĐ ngày 14-8-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, bên trong chứa mẫu vật hoàn lại sau giám định là chất Nhà nước cấm vận chuyển, lưu hành bất hợp pháp; 01 sim điện thoại số 0879.563.625 không còn giá trị sử dụng.

+ Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu VSMART màu xanh đen là phương tiện phạm tội của bị cáo.

+ Trả lại bị cáo Bùi Văn H 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) là tài sản của bị cáo không liên quan đến tội phạm.

(Tình trạng và đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 01 tháng 12 năm 2020 giữa Công an thành phố Uông Bí và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Uông Bí) .

3. Về án phí:

Áp dụng: Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 3, khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Danh mục án phí, lệ phí Toà án của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

Buộc bị cáo Bùi Văn H phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà nước.

4. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, báo cho bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, ngày 03 tháng 12 năm 2020./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

296
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 123/2020/HS-ST ngày 03/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:123/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:03/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về