TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 123/2020/HS-PT NGÀY 21/09/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Trong ngày 21/9/2020 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 175/2020/TLPT-HS ngày 13/7/2020 đối với bị cáo Nguyễn Thị L, Nguyễn Đình C do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 69A/2020/HS-ST ngày 05/06/2020 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bắc Giang.
1. Họ và tên: Nguyễn Thị L, sinh năm 1966; tên gọi khác: Không; giới tính: Nữ; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Số nhà 21B, ngõ 308, đường N, phường T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 10/10; Con ông Nguyễn Huy T, sinh năm 1936 (đã chết) và bà Đỗ Thị M, sinh năm 1933; gia đình có 07 anh chị, em, bản thân bị cáo là thứ năm; chồng: Lương Văn H, sinh năm 1965; bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 1992, con nhỏ sinh năm 1999; tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt quả tang, bị tạm giữ từ ngày 26/12/2019 đến ngày 01/01/2020 thì bị cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện tại ngoại. (Có mặt tại phiên tòa)
2. Họ và tên: Nguyễn Đình C, sinh năm 1977; tên gọi khác: Không; giới tính:
Nam; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Thôn H, xã C, huyện B, tỉnh Hải Dương; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; con ông Nguyễn Đình T, sinh năm 1950 và bà Vũ Thị T, sinh năm 1948; gia đình có 04 anh, chị , em, bản thân là thứ hai; vợ: Vũ Thị D, sinh năm 1980; bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2000, con nhỏ sinh năm 2006; tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt quả tang, bị tạm giữ, từ ngày 26/12/2019 đến ngày 01/01/2020 thì bị cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện tại ngoại. (Có mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án như sau:
Nguyễn Thị L, sinh năm 1966, trú tại số nhà 21B, ngõ 308, đường N, phường T, thành phố B ký hợp đồng làm đại lý bán vé xổ số cho Công ty TNHH một thành viên xổ số kiến thiết B từ ngày 15/8/2019, địa điểm bán xổ số tại vỉa hè đường N, phường T, thành phố B. Đến cuối tháng 12 năm 2019, ngoài việc bán xổ số thì L còn bán số lô, số đề cho khách để có thêm thu nhập. Khoảng 16 giờ ngày 26/12/2019, L đang bán xổ số thì có Nguyễn Đình C, sinh năm 1977 trú tại thôn H, xã C, huyện B, tỉnh Hải Dương (là người làm nghề bán hàng tự do) đến mua số đề. L đồng ý bán cho C ở giải lô điểm số 66- 100 điểm (mỗi điểm lô tương ứng với 23.000 đồng). L viết số lô đã bán vào tờ cáp con (là mặt sau của tờ giấy cắt từ tờ kết quả xổ số) nội dung “26/12 Lô 66-100n” rồi sử dụng điện thoại Iphone 5S chụp lại để theo dõi. Sau đó L đưa cho C tờ cáp con và số tiền 5.000.000 đồng là tiền C trúng đề 8.000.000 đồng của ngày 25/12/2019 sau khi đã trừ đi số tiền C vay trước đó (700.000 đồng) và tiền mua số đề ngày 26/12/2019 (2.300.000 đồng). Khi L vừa bán số lô cho C xong thì bị Tổ công tác Công an phường T, thành phố B bắt quả tang.
Vật chứng thu giữ khi bắt quả tang bao gồm:
- Thu giữ của Nguyễn Đình C: 01 tờ kết qủa xổ số mặt sau có ghi các dãy số tự nhiên và chữ đề ngày 26/12 (ký hiệu giám định A1); 01 phần tờ kết quả xổ số mặt sau có các dãy số tự nhiên và chữ đề ngày 24/12 (ký hiệu giám định A2); 01 phần tờ kết quả xổ số mặt sau có ghi các dãy số tự nhiên và chữ đề ngày 25/12 (ký hiệu giám đinh A3); số tiền 5.300.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu mobiistar- B201; 01 xe mô tô nhãn hiệu Pomuspacyan biển kiểm soát 34F8-7163;
- Thu giữ của Nguyễn Thị L: 01 điện thoại di động Iphone 5S màu trắng imei 990002785474717; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen bên trong có gắn sim số thuê bao 0866494821; 01 xe máy điện màu đỏ Luxury và số tiền 10.300.000 đồng.
Ngày 26/12/2019, Cơ quan điều tra kiểm tra điện thoại Nokia thu của Nguyễn Thị L kết quả không có nội dung gì liên quan đến mua bán số lô, số đề; kiểm tra điện thoại Iphone 5S màu trắng thu của Nguyễn Thị L, kết quả tại thư mục ảnh có 01 hình ảnh chụp lúc 16 giờ 23 phút ngày 26/12/2019 với nội dung: “26/12 Lô 66- 100n”, thư mục tin nhắn không có nội dung gì liên quan đến mua bán số lô, số đề.
Ngày 27/12/2019, Cơ quan điều tra quyết định trưng cầu giám định đối với các tờ cáp đề đã thu giữ. Tại kết luận giám định số 2110/KL- KTHS ngày 31/12/2019, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận: “Chữ viết có nội dung “26/12- Lô 66-100n” trên tài liệu cần giám định (ký hiệu A1); “24/12-ĐB-33-400 Lô 33-100” trên tài liệu giám định (ký hiệu A2); “25/12- Xiên-00-30-35-55/200n- 30-35-55/200-30-55/100n- Lô 30-50n” trên tài liệu cần giám định (ký hiệu A3) so với chữ viết của Nguyễn Thị L trên các tài liệu mẫu (ký hiệu từ M1 đến M5) là do cùng một người viết ra.” Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thị L khai nhận tự mình đứng ra bán số lô, số đề cho C với các hình thức như sau:
- Dạng chơi đề “Đặc biệt”, “Nhất to” hoặc “2 cửa”; ký hiệu ghi đề Đặc biệt là “ĐB”. Người chơi đặt cược hai số cuối của giải đặc biệt hoặc giải nhất hoặc đặt cược cả 2 số cuối của giải đặc biệt và giải nhất của kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc, nếu trúng người chơi đề sẽ được trả thưởng gấp 70 lần tiền cược, nếu không trúng thì mất số tiền đặt cược.
- Dạng chơi “Lô” điểm, ký hiệu là: “Lô”. Người chơi đặt cược 2 số cuối của tất cả các giải kết quả xổ số, nếu trúng cược sẽ được trả 80.000 đồng/1 điểm (mỗi điểm người chơi phải đặt cược 23.000 đồng). Nếu người chơi thua thì bị mất số tiền đặt cược.
- Dạng chơi “lô xiên”, ký hiệu là: “Xiên”: Người chơi đặt cược từng cặp số gồm cặp 2 số, cặp 3 số, cặp 4 số (mỗi số gồm có 2 chữ số) để cược với hai số cuối cùng của tất cả các giải xổ số. Nếu trúng người chơi sẽ được trả thưởng theo tỷ lệ: Cặp 2 số (xiên 2) hưởng gấp 10 lần số tiền đặt cược, cặp 3 số (xiên 3) hưởng gấp 45 lần số tiền đặt cược, cặp 4 số (xiên 4) hưởng gấp 120 lần số tiền đặt cược. Nếu người chơi thua thì bị mất số tiền đặt cược.
Về ký hiệu ghi trên các tờ cáp đề được hiểu như sau: Các số lô đề được ghi theo hàng dọc từ trên xuống dưới; trong đó ghi số “24/12”, “25/12”, “26/12” là các ngày ghi lô đề; cột “ĐB” là ghi số đề dạng Đặc biệt, cột ghi “Xiên” là dạng lô xiên; cột ghi “Lô” là dạng lô điểm. Trên cáp lô đề được tính từ trái qua phải, bên trái ghi số lô đề còn bên phải ghi số tiền người chơi đặt cược với đơn vị tính là 1.000 đồng hoặc là số điểm lô (tờ cáp 24/12 ghi điểm lô, đề; tờ cáp ngày 25/12 và 26/12 ghi số tiền cược cho 1 số).
Tuỳ từng dạng đánh lô, đề mà L thu tiền của C như sau: Ở dạng đề, L thu của C 80% số tiền ghi trên cáp; ở dạng lô xiên, L thu của C 100% số tiền trên cáp; ở dạng lô điểm, L thu của C 23.000 đồng/1 điểm.
Quá trình điều tra, Nguyễn Thị L khai nhận các tờ cáp đề con mà Cơ quan điều tra thu giữ của C khi bắt quả tang chính là các tờ cáp L ghi lại các số lô, số đề đã bán cho C trong các ngày 24/12/2019, 25/12/2019 và 26/12/2019. Số tiền L và C đánh bạc trong từng ngày cụ thể như sau:
* Ngày 24/12/2019: Số tiền mua bán số lô, số đề là 2.700.000 đồng, bao gồm: Giải đặc biệt số 33 là 400.000 đồng. Giải lô điểm số 33 là 100 điểm x (23.000 đồng/1 điểm) = 2.300.000 đồng. Số tiền C trúng thưởng (lô điểm số 33) là 8.000.000 đồng.
Tổng số tiền các bị cáo L và C đánh bạc trong ngày 24/12/2019 là 10.700.000 đồng (trong đó số tiền đánh bạc là 2.700.000 đồng và tiền trúng thưởng là 8.000.000 đồng).
* Ngày 25/12/2019: Số tiền mua bán số lô, số đề là 1.650.000 đồng, bao gồm: Giải lô xiên 4 các số 00-30-35-55 là 200.000 đồng, lô xiên 3 các số 30-35-55 là 200.000 đồng, lô xiên 2 các số 30-55 là 100.000 đồng. Giải lô điểm số 30 là 50 điểm x (23.000 đồng/1 điểm) =1.150.000 đồng. Số tiền C trúng thưởng (lô điểm số 30 xuất hiện 2 lần) là 8.000.000 đồng.
Tổng số tiền các bị cáo L và C đánh bạc trong ngày 25/12/2019 là 9.650.000 đồng (trong đó số tiền đánh bạc là 1.650.000 đồng và tiền trúng thưởng là 8.000.000 đồng).
* Ngày 26/12/2019: Do các bị cáo L và C bị bắt khi chưa có kết quả xổ số nên số tiền đánh bạc ngày 26/12/2019 là 2.300.000 đồng.
Tổng số tiền C thu lợi bất chính trong hai ngày 24/12/2019 và 25/12/2019 là 11.730.000 đồng.
Nguyễn Thị L và Nguyễn Đình C phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đánh bạc trong ngày 24/12/2019 và 25/12/2019. Đối với hành vi đánh bạc của Nguyễn Thị L và Nguyễn Đình C trong ngày 26/12/2019 chưa đủ cấu thành tội phạm, ngày 16/3/2020 Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã có công văn yêu cầu Công an thành phố B xử lý vi phạm hành chính.
Đối với 01 xe mô tô có biển kiểm soát 34F8-7163 qua điều tra xác định là do bị cáo C mượn bố vợ là ông Vũ Văn L, sinh năm 1957 ở thôn L, xã Y, huyện G, tỉnh Hải Dương. Cơ quan điều tra đã trả chiếc xe trên cho ông Lộc.
Đối với 01 xe máy điện nhãn hiệu Luxury màu đỏ, số máy TY60V800W161113213, số khung RRWY8FKTAGSA00850 qua điều tra xác định được là tài sản của Nguyễn Thị L và chồng là ông Lương Văn H.
Tại Cơ quan điều tra, các bị cáo Nguyễn Thị L và Nguyễn Đình C đã khai nhận hành vi phạm tội.
Tại Bản cáo trạng số 46/CT-VKS ngày 17 tháng 3 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố các bị cáo Nguyễn Thị L, Nguyễn Đình C về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.
Với nội dung nêu trên bản án hình sự sơ thẩm số 69A/2020/HS-ST ngày 05/6/2020 của tòa án nhân dân thành phố B đã xét xử và quyết định:
Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị L và Nguyễn Đình C phạm tội “Đánh bạc”.
Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị L 01 (Một) năm 04 (Bốn) tháng tù. Thời gian tù tính từ ngày bắt để thi hành án nhưng được trừ đi thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/12/2019 đến ngày 01/01/2020.
Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo L.
Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình C 01 (Một) năm 02 (Hai) tháng tù. Thời gian tù tính từ ngày bắt để thi hành án nhưng được trừ đi thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/12/2019 đến ngày 01/01/2020.
Phạt bổ sung bị cáo C 12.000.000 đồng (Mười hai triệu đồng) để sung vào ngân sách Nhà nước.
Ngoài ra bản án còn tuyên phần xử lý vật chứng, phần án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 17/6/2020 bị cáo Nguyễn Thị L có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.
Ngày 18/6/2020 bị cáo Nguyễn Đình C nộp đơn kháng cáo với nội dung xin cấp phúc thẩm xem xét cho bị cáo được giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên toà phúc thẩm hôm nay bị cáo Nguyễn Thị L, Nguyễn Đình C giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Với lý do: Bị cáo L hoàn cảnh gia đình khó khăn, con gái lớn bị bệnh tâm thần, được trợ cấp hàng tháng. Bị cáo đã nộp 200.000đ tiền án phí. Bị cáo C có bố mẹ là người có công với cách mạng, bị cáo tham gia nghĩa vụ quân sự 03 năm, bị cáo là lao động chính trong gia đình.
Đại diện VKSND tỉnh Bắc Giang thực hành quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích các tình tiết của vụ án, tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của các bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các vấn đề kháng cáo mà bị cáo nêu ra đã kết luận và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355 để chấp nhận một phần kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Thị L, sửa bản án hình sự sơ thẩm đối với bị cáo L, đề nghị xử phạt bị cáo L 10 tháng tù. Đề nghị HĐXX không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đình C, xử y án sơ thẩm.
Bị cáo Nguyễn Thị L, Nguyễn Đình C không tranh luận gì với quan điểm của Viện kiểm sát.
Lời nói sau cùng của bị cáo Nguyễn Thị L: đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Lời nói sau cùng của bị cáo Nguyễn Đình C: đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị L, Nguyễn Đình C đã nộp theo đúng các quy định của pháp luật nên được coi là đơn kháng cáo hợp pháp cần được chấp nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Thị L và Nguyễn Đình C, qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng như quá trình xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm thấy đủ cơ sở xác định:
Trong hai ngày 24/12/2019 và 25/12/2019, tại vỉa hè đường Nguyễn Gia Thiều, phường Trần Phú, thành phố B, Nguyễn Thị L và Nguyễn Đình C đã có hành vi đánh bạc trái phép dưới hình thức mua, bán số lô, số đề với số tiền đánh bạc ngày 24/12/2019 là 10.700.000 đồng và ngày 25/12/2019 là 9.650.000 đồng. Ngày 26/12/2019, Nguyễn Thị L và Nguyễn Đình C tiếp tục mua bán số đề với số tiền đánh bạc là 2.300.000 đồng thì bị Tổ công tác Công an phường Trần Phú, thành phố B bắt quả tang.
Trước khi phạm tội, các bị cáo không có sự bàn bạc, thống nhất phân công nhiệm vụ cụ thể từ trước nên đây là vụ án đồng phạm có tính chất giản đơn.
Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1Điều 321 Bộ luật hình sự.
Bản án hình sự sơ thẩm số 69A/2020/HS-ST ngày 05/6/2020 của Tòa án nhân dân thành phố B đã xét xử các bị cáo về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1Điều 321 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.
[3] Xét nội dung kháng cáo của các bị cáo thấy:
- Xét về nhân thân các bị cáo thì thấy: Các bị cáo đều có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.
- Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo thì thấy: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà hôm nay, các bị cáo đều có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo C có bố đẻ là ông Nguyễn Đình Tẩu được Nhà nước tặng thưởng huy chương kháng C và bản thân bị cáo cũng từng tham gia phục vụ trong quân ngũ, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét áp dụng cho các bị cáo là có căn cứ và đúng quy định.
- Xét các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của các bị cáo thì thấy: Các bị cáo thực hiện hành vi đánh bạc trong hai ngày 24/12/2019 và 25/12/2019 nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội 02 lần theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Bị cáo C kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, tuy nhiên tại Tòa án cấp phúc thẩm không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới nên Hội đồng xét xử thấy không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm đối với bị cáo Nguyễn Đình C như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang tại phiên tòa là phù hợp với quy định của pháp luật.
Bị cáo L sau khi xét xử sơ thẩm đã nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm, hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo có 01 con gái bị bệnh tâm thẩn, được trợ cấp hàng tháng lại vừa mới sinh con nhỏ, chồng là bảo vệ do vậy thu nhập hạn chế, đây là các tình tiết giảm nhẹ mới quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cầm áp dụng cho bị cáo. Do vậy, Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo L, giảm mức hình phạt tù cho bị cáo L để tương xướng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội và đảm bảo sự khoan hồng của pháp luật.
Đối với kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo L, căn cứ Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì Hội đồng xét xử thấy không có căn cứ để chấp nhận vì bị cáo phạm tội nhiều lần, thực hiện hành vi đánh bạc trong 02 ngày.
[4] Án phí: Do được chấp nhận một phần kháng cáo nên bị cáo Nguyễn Thị L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Do không được chấp nhận kháng cáo nên bị cáo Nguyễn Đình C phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm.
[5] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị cấp phúc thẩm không xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị L, sửa bản án sơ thẩm để giảm hình phạt tù đối với bị cáo L. Căn cứ Điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đình C, giữ nguyên bản án sơ thẩm đối với bị cáo C.
1.1. Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị L 10 (mười) tháng tù. Thời gian tù tính từ ngày bắt để thi hành án nhưng được trừ đi thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/12/2019 đến ngày 01/01/2020.
1.2. Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình C 01 (Một) năm 02 (Hai) tháng tù. Thời gian tù tính từ ngày bắt để thi hành án nhưng được trừ đi thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/12/2019 đến ngày 01/01/2020.
Xác nhận bị cáo Nguyễn Thị L đã nộp 200.000 đồng tại biên lai thu tiền số: AA/2012/00809 ngày 21/9/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Bắc Giang.
[2] Án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội: Bị cáo Nguyễn Thị L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Bị cáo Nguyễn Đình C phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm.
[3] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 123/2020/HS-PT ngày 21/09/2020 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 123/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về