Bản án 123/2020/HNGĐ-ST ngày 30/09/2020 về ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HẢI, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 123/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2020 VỀ LY HÔN, NUÔI CON

 Ngày 30 tháng 9 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hải xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 410/2020/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 7 năm 2020 về việc “Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:148/2020/QĐXX-HNGĐ ngày 27 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: chị Cung Thị S, sinh năm 1989.

Địa chỉ: Số 151D/1, tổ 10, khu phố 1A, phường AP, thành phố TA, tỉnh Bình Dương.

Bị đơn: Anh Võ Trung H, sinh năm 1988.

Địa chỉ: Ấp 1, xã ATA, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu.

(chị S có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh H vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 20/7/2020 và trong quá trình tố tụng, chị Cung Thị S trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh H chung sống năm 2013, hôn nhân tự nguyện, được cha mẹ tổ chức đám theo phong tục tại địa phương và có đến Ủy ban nhân dân xã AT A, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu đăng ký kết hôn năm 2013.

Trong thời gian chung sống vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn, cãi nhau, cuộc sống vợ chồng luôn căng thẳng không hạnh phúc. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là vợ chồng không cùng quan điểm sống, mỗi người một suy nghĩ, cách sống khác nhau. Vợ chồng cũng đã nhiều lần hòa giải, hàn gắn để tiếp tục chung sống nhưng không thành. Vợ chồng đã sống ly thân hơn 03 năm, trong khoảng thời gian sống ly thân vợ chồng không còn quan tâm lẫn nhau. Xét thấy vợ chồng không còn khả năng hàn gắn, tiếp tục chung sống cũng không còn hạnh phúc nên yêu cầu ly hôn với anh H.

Về con: Chị và anh H có 01 người con là Võ Ngọc H1, sinh ngày 11/11/2014 hiện nay con đang sống cùng với chị, khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Võ Trung H vắng mặt trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa nên không có lời trình bày.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu phát biểu quan điểm: Quá trình thụ lý giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định Luật tố tụng dân sự; nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật. Bị đơn chưa chấp hành đúng theo giấy triệu tập của Tòa án.

Nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Năm 2017, chị S và anh H tự nguyện yêu thương, chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn, do đó hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Trong thời gian chung sống giữa chị S và anh H phát sinh nhiều mâu thuẫn không thể hàn gắn. Xét thấy, hôn nhân của chị S và anh H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần cho chị S được ly hôn với anh H là phù hợp.

Về con chung: người con Võ Ngọc H1, sinh ngày 11/11/2014 hiện nay đang sống cùng chị S, để ổn định cuộc sống của con chưa thành niên cần tiếp tục giao con cho chị S nuôi là phù hợp.

Chị S không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét giải quyết.

Về tài sản và nợ: Chị S không yêu cầu nên không xem xét. Về án phí hôn nhân chị S nộp theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hải về tuân theo pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Cung Thị S khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Võ Trung H, anh H có địa chỉ cư trú tại ấp 1, xã AT A, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu.

Chị S có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh H được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham dự phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt chị S và anh H.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Về hôn nhân: Năm 2013, chị S và anh H tự nguyện yêu thương, chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã AT A, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu. Do đó, hôn nhân của anh chị là hợp pháp.

Trong thời gian chung sống giữa chị S và anh H phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là vợ chồng không cùng quan điểm, mỗi người có một suy nghĩ, cách sống khác nhau, hiện nay chị S xác định mâu thuẫn giữa anh chị đã trầm trọng, không còn khả năng hàn gắn nên yêu cầu ly hôn.

Hội đồng xét xử xét thấy: Mục đích của hôn nhân là xây dựng gia đình hạnh phúc, vợ chồng có nghĩa vụ yêu thương, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ. Tuy nhiên, qua thời gian chung sống giữa chị S và anh H không thực hiện được mà còn phát sinh nhiều mâu thuẫn, chị và anh H hiện nay đã sống ly thân hơn 03 năm, trong khoảng thời gian sống ly thân anh chị không còn quan tâm, chăm sóc cho nhau. Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập anh H đến tham dự phiên hòa giải, phiên tòa nhưng anh H vắng mặt không có lý do. Xét thấy hôn nhân của chị S và anh H đã lâm vào trình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cần chấp nhận yêu cầu của chị S được ly hôn với anh H là phù hợp.

[2.2]. Về con chung: Xét thấy người con Võ Ngọc H1, sinh ngày 11/11/2014 đang sống cùng chị S. Nhằm tránh làm xáo trộn cuộc sống của con chưa thành niên cần tiếp tục giao con cho chị S nuôi là phù hợp. Anh Võ Trung H có quyền, nghĩa vụ thăm con chung không ai được cản trở.

Chị S không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

[2.3]. Về tài sản và nợ: Chị S không yêu cầu nên không xem xét.

[2.4]. Về án phí sơ thẩm hôn nhân: Chị S phải nộp số tiền 300.000 đồng, được đối trừ tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 1 khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 53, 56, 81, 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình;

Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Cho chị Cung Thị S được ly hôn với anh Võ Trung H.

2. Về con chung: Giao người con Võ Ngọc H1, sinh ngày 11/11/2014 cho chị Cung Thị S tiếp tục nuôi dưỡng. Anh Võ Trung H có quyền, nghĩa vụ thăm con không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Cung Thị S không yêu cầu nên không xem xét.

3. Về tài sản chung và nợ: Chị Cung Thị S không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

4. Về án phí sơ thẩm hôn nhân: Chị Cung Thị S nộp số tiền 300.000 đồng, chị Cung Thị S đã nộp tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0007783 vào ngày 24/7/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Hải được chuyển thu án phí.

Án xử công khai, chị Cung Thị S, anh Võ Trung H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 123/2020/HNGĐ-ST ngày 30/09/2020 về ly hôn, nuôi con

Số hiệu:123/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hải - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về