Bản án 123/2019/HS-PT ngày 07/08/2019 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 123/2019/HS-PT NGÀY 07/08/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 07 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương mở phiên toà xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 136/2019/TLPT-HS ngày 08 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo Nguyễn Văn P. Do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn P đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 95/2019/HS-ST ngày 29 tháng 5 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố T tỉnh Bình Dương.

- Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Văn P, sinh năm 1979 tại tỉnh Hậu Giang. Hộ khẩu thường trú: Ấp 00  xã V  huyện V  tỉnh Hậu Giang. Địa chỉ tạm trú: 00  đường Nguyễn C T, khu phố 00  phường H  thành phố T  tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị A; bị cáo có vợ là Nguyễn Thị C, Sinh năm 1979; có 02 con (lớn sinh năm 2002  nhỏ sinh năm 2009). Tiền án, nhân thân: Không. Nhân thân: Ngày 08/11/2004  bị Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 47/2008/HSPT. Ngày 22/02/2008  bị Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 12/2008/HSPT. Bị cáo tại ngoại  cho đến nay (có mặt).

Trong vụ án còn có 07 bị cáo và 01 người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nhưng do không có kháng cáo  không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa  nội dung v án được tóm tắt như sau:

 Nguyễn Văn P Lê Thị D Nguyễn Thị Mỹ H Phan Thị B Đỗ Thị Hải Y, Huỳnh Thị B1 Thủy  Phạm Thị Ngọc S và Trần Thị C có mối quan hệ quen biết với nhau và gần phòng trọ với nhau tại Nhà trọ số 00, đường Nguyễn C T, khu 00, phường H, thành T tỉnh Bình Dương.

Khoảng 21 giờ ngày 18/01/2018 trong lúc Nguyễn Văn P đang ở phòng trọ số 9, Nhà trọ số 00, đường Nguyễn C T, khu 00 phường H, thành T tỉnh Bình Dương thì Phan Thị B Nguyễn Thị Mỹ H Phạm Thị Ngọc S và Trần Thị C đến phòng trọ của P để chơi. Lúc này P có ý định đánh bài cào ba lá thắng thua bằng tiền nên P rủ B, H, S và C cùng chơi thì B, H, S và C đồng ý. P đi bộ ra cửa hàng tạp hóa phía trước dãy nhà trọ mua 05 bộ bài tây loại 52 lá đem về phòng trọ số 9 để P, B, H, S và C cùng chơi đánh bạc. Khi tham gia đánh bạc P sử d ng số tiền 2.500.000 đồng; B sử dụng số tiền 400.000 đồng; H sử d ng số tiền 1.000.000 đồng; S sử dụng số tiền 400.000 đồng. C sử dụng 2.600.000 đồng để tham gia đánh bạc. P, B, H, S và C thống nhất với nhau chơi bài cào ba lá thắng thua bằng tiền và sử dụng bộ bài tây loại 52 lá để đánh bạc. P là người làm cái còn B, H, S và C là con bạc và thắng thua trực tiếp với P. Trước khi P chia bài thì B, H, S và C tham gia đặt tiền theo B, H, S và C tham gia đặt số tiền từ 10.000 đồng đến 20.000 đồng. Tiếp đó P chia bài cho B, H, S và C mỗi người được chia 3 lá bài. Sau đó B, H, S và C đếm điểm bài trên tay để so bài với P. Ba lá bài của người nào có điểm thấp hơn bài của P thì người đó sẽ thua tiền đặt cược và ngược lại bài của người nào điểm lớn hơn bài của P thì người đó thắng số tiền tương đương số tiền đã đặt cược. Đến khoảng 21 giờ 30 phút ngày 18/01/2018 Lê Thị D; Đỗ Thị Hải Y Huỳnh Thị B1 Thủy cùng đi đến phòng trọ số 9 của P thấy Nguyễn Văn P; Phan Thị B Nguyễn Thị Mỹ H, Phạm Thị Ngọc S và Trần Thị C đang đánh bài cào ba lá thắng thua bằng tiền. Thấy vậy Lê Thị D sử dụng số tiền 600.000 đồng Huỳnh Thị B1 Thủy sử dụng số tiền 50.000 đồng và Đỗ Thị Hải Y sử dụng số tiền 700.000 đồng để cùng vào tham gia đánh bạc với P, B, H, S và C.

Đến khoảng 23 giờ 15 phút cùng ngày 18/01/2018 trong lúc Nguyễn Văn P, Lê Thị D Nguyễn Thị Mỹ H, Phan Thị B Đỗ Thị Hải Y Huỳnh Thị B1 Thủy Phạm Thị Ngọc S và Trần Thị C đang đánh bạc trái phép dưới hình thức chơi bài cào ba lá thắng thua bằng tiền thì bị Công an phường Hiệp An thành phố T phát hiện bắt quả tang thu giữ: Trên chiếu bạc là 8.250.000 đồng; 05 bộ bài tây loại 52 lá; 01 xe mô tô hiệu Honda Vision màu trắng biển số 61B1-66725 của Đỗ Thị Hải Y; 01 xe mô tô nhãn hiệu VIEXIM màu đỏ biển số 37N1- 8128 của Phạm Thị Ngọc S; 01 xe mô tô nhãn hiệu XIONGSHI màu xanh biển số 52K6 – 8120 của Lê Thị D và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu trắng của Nguyễn Thị Mỹ H. Ngày 19/01/2018 Công an phường Hiệp An chuyển hồ sơ vụ việc đến Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố T để xử lý theo thẩm quyền.

Đối với 8.250.000 đồng: Quá trình điều tra xác định đây là tiền do Nguyễn Văn P Lê Thị D Nguyễn Thị Mỹ H Phan Thị B Đỗ Thị Hải Y Huỳnh Thị B1 Thủy Phạm Thị Ngọc S và Trần Thị C sử dụng để đánh bạc nên Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố T chuyển Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh Bình Dương đề nghị tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà nước. Đối với 05 bộ bài tây loại 52 lá do các bị can sử dụng làm công cụ phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố T chuyển Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh Bình Dương đề nghị tuyên tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu trắng thu giữ của Nguyễn Thị Mỹ H. Quá trình điều tra xác định: Chiếc điện thoại nói trên là tài sản cá nhân của H không liên quan đến hành vi phạm tội nên ngày 07/02/2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố T ra Quyết định xử lý vật chứng số 68 giao trả chiếc điện thoại nói trên cho Nguyễn Thị Mỹ H. Đối với xe mô tô hiệu Honda Vision màu trắng biển số 61B1-66725 thu giữ của Đỗ Thị Hải Y là do bà Đỗ Thị Như Ng sinh năm 1997 tại khu 00, phường H thành phố T tỉnh Bình Dương (bà Ng là em ruột của Đỗ Thị Hải Y) đứng tên trên Giấy chứng nhận đăng ký xe. Ngày 18/01/2018, bà Ng cho Đỗ Thị Hải Y mượn xe mô tô nói trên để làm phương tiện đi công việc. Sau đó Yến sử dụng xe mô tô trên đi đến phòng trọ của Nguyễn Văn P để chơi sau đó Y thực hiện hành vi đánh bạc bà Ng không biết. Ngày 07/02/2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố T ra Quyết định xử lý vật chứng số 66 giao trả xe mô tô nói trên cho bà Đỗ Thị Như Ng. Đối với xe mô tô nhãn hiệu VIEXIM màu đỏ biển số 37N1-8128. Quá trình điều tra xác định: Xe mô tô nói trên do Phạm Thị Ngọc S là chủ sỡ hữu và xe mô tô nói trên không liên quan đến hành vi phạm tội của S nên Ngày 07/02/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố T ra Quyết định xử lý vật chứng số 67 giao trả xe mô tô nói trên cho Phạm Thị Ngọc S.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu XIONGSHI màu xanh Biển số 52K6 – 8120 là do ông Lương Ngọc H sinh năm 1983 tại số 00, Bà H Phường 00 Quận 00, Thành phố Hồ Chí Minh đứng tên trên Giấy chứng nhận đăng ký xe. Quá trình điều tra Lê Thị D khai nhận đã mua lại xe mô tô nói trên của một người nam (không rõ nhân thân lai lịch) khi mua bán xe D không làm Giấy S tên và đổi chủ theo quy định. Ngày 28/3/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố T tiến hành xác minh tại địa chỉ số 00, Bà H Phường 00 Quận 00, Thành phố Hồ Chí Minh xác định không có ai tên Lương Ngọc H đăng ký hộ khẩu thường trú tại đây. Do chưa xác định được chủ sỡ hữu của xe mô tô trên nên Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố T giữ lại xe mô tô nhãn hiệu XIONGSHI màu xanh Biển số 52K6 – 8120 mô tô tiếp tục xác minh xử lý sau.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 95/2019/HS-ST ngày 29 tháng 5 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố T tỉnh Bình Dương đã quyết định:

Tuyên bố Nguyễn Văn P phạm tội “Đánh bạc”. Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 58  Điều 38 của Bộ luật hình sự xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn P 06 (sáu) tháng tù  thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án.

Ngoài ra  bản án còn tuyên về xử lý vật chứng  án phí  quyền kháng cáo theo quy định.

Ngày 10/6/2019  bị cáo Nguyễn Văn P kháng cáo xin được hưởng án treo. Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương: Bị cáo thực hiện quyền kháng cáo trong thời hạn luật định  Tòa án nhân dân dân tỉnh Bình Dương đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm là đúng thẩm quyền  đúng quy định của pháp luật. Về nội dung  Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Văn P về tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1  Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015  sửa đổi  bổ sung năm 2017 là đúng người  đúng tội  đúng quy định của pháp luật. Bị cáo kháng cáo xin được hưởng án treo nhưng không cung cấp tình tiết gì mới nên không có cơ s chấp nhận kháng cáo của bị cáo  đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo.

Trong lời nói sau cùng  bị cáo Nguyễn Văn P mong Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án  căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Nguyễn Văn P đã khai nhận hành vi phạm tội như sau: Khoảng 21 giờ ngày 18/01/2018, Nguyễn Văn P Lê Thị D, Nguyễn Thị Mỹ H Phan Thị B Đỗ Thị Hải Y Huỳnh Thị B1 Thủy Phạm Thị Ngọc S và Trần Thị C đánh bạc trái phép dưới hình thức chơi bài cào 03 lá thắng thua bằng tiền tại phòng trọ của Nguyễn Thanh P thuộc khu 1 phường Hiệp An thành T tỉnh Bình Dương. Đến khoảng 23 giờ 15 phút cùng ngày thì bị Công an phường Hiệp An thành phố T phát hiện bắt quả tang tổng số tiền thu giữ tại chiếu bạc là 8.250.000 đồng. Căn cứ vào tính chất hành vi vai trò nhân thân của từng bị cáo trong vụ án Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Nguyễn Văn P và đồng phạm về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người đúng tội đúng quy định của pháp luật.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn P về việc hư ng án treo: Bị cáo P là người rủ rê đề xướng, mua 05 bộ bài tây loại 52 lá và trực tiếp làm cái để các con bạc khác tham gia đánh bạc thắng, thua bằng tiền. Ngoài ra, bị cáo P có nhân thân xấu từng bị xét xử 02 lần về tội “Trộm cắp tài sản” nay lại tiếp tuc phạm tội chứng tỏ thái độ xem thường pháp luật. Bị cáo kháng cáo nhưng không cung cấp được tài liệu chứng cứ nào mới cho yêu cầu của mình, khi quyết định hình phạt đối với bị cáo Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo mức hình phạt 06 (sáu) tháng tù đối với bị cáo là phù hợp, có ý nghĩa trong việc đấu tranh phòng chống tệ nạn cờ bạc tại địa phương hiện nay. Vì vậy không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn P.

[3] Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương về việc giải quyết vụ án là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[4] Các phần khác của quyết định bản án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

[5] Án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên các bị cáo Nguyễn Văn P phải nộp án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

 QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự;

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn P; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 95/2019/HS-ST ngày 29 tháng 5 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố T tỉnh Bình Dương.Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi  bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn P 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án.

2. Về án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường v Quốc hội quy định về mức thu  miễn  giảm  thu  nộp  quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Nguyễn Văn P phải nộp 200.000 đồng.

3. Các phần khác của quyết định án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo  kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

308
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 123/2019/HS-PT ngày 07/08/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:123/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về