Bản án 123/2019/HNGĐ-ST ngày 25/06/2019 về xin ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 123/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/06/2019 VỀ XIN LY HÔN

Trong ngày 25 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 409/2019/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 05 năm 2019, về việc xin ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 396/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 31 tháng 5 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn M - sinh năm 1991 (có mặt).

2. Bị đơn: Chị Đào Kiều T - sinh năm 1990 (có mặt).

Cùng địa chỉ: Khóm A, phường B, thành phố C, Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn anh Nguyễn Văn M trình bày:

Về hôn nhân: Anh M và chị Đào Kiều T đăng ký kết hôn vào năm 2012, tại Ủy ban nhân dân xã Nguyễn Phích, huyện U M, tỉnh Cà Mau. Hôn nhân tự nguyện. Khoảng năm 2017, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm. Vợ chồng thường xuyên cải vã, đánh chửi nhau, sự việc đã được gia đình hai bên hàn gắn nhưng không có kết quả. Hiện anh M và chị T đã ly thân khoảng 03 tháng. Nhận thấy cuộc sống chung không còn hạnh phúc nên anh M yêu cầu xin ly hôn với chị T.

Về con chung: Anh M và chị T có 01 người con chung tên Nguyễn Thiên K, sinh ngày 27/12/2014. Hiện cháu K đang sống với chị T. Khi ly hôn, anh M yêu cầu được nuôi con chung, không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Anh M xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Anh M xác định không có Bị đơn chị Đào Kiều T trình bày:

Về hôn nhân: Chị T và anh M đăng ký kết hôn vào năm 2012, tại Ủy ban nhân dân xã Nguyễn Phích, huyện U M, tỉnh Cà Mau. Hôn nhân tự nguyện. Khoảng năm 2017, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm. Anh, chị có đánh chửi nhau, có được gia đình hai bên hàn gắn. Hiện anh M và chị T đã ly thân khoảng 03 tháng. Tuy nhiên chị T còn thương anh M và con còn nhỏ nên chị T không đồng ý ly hôn với anh M.

Về con chung: Chị T và anh M có 01 người con chung tên Nguyễn Thiên K, sinh ngày 27/12/2014. Hiện cháu K đang sống với chị T. Khi ly hôn, chị T yêu cầu được nuôi con chung, không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị T xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Chị T xác định không có.

 NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Nguyên đơn anh Nguyễn Văn M và chị Đào Kiều T thống nhất xác định: Anh M và chị T đăng ký kết hôn vào năm 2012, tại Ủy ban nhân dân xã Nguyễn Phích, huyện U M, tỉnh Cà Mau. Hôn nhân tự nguyện. Thời gian chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, do anh M thường xuyên đi uống bia rượu, chị T không đồng ý nên có những lời lẽ xúc phạm anh M. Gia đình anh M không đồng ý việc chị T xúc phạm anh M nên xúc phạm lại chị T, từ đó dẫn đến mâu thuẫn giữa chị T và anh M ngày càng gay gắt. Hiện chị T đã về nhà mẹ ruột chị T sinh sống, còn anh M cũng về bên gia đình anh M sống. Ngoài mâu thuẫn vợ chồng, thì giữa chị T và gia đình bên chồng cũng phát sinh mâu thuẫn, hiện hai bên không qua lại, nói chuyện với nhau. Anh M kiên quyết xin ly hôn với chị T vì cho rằng chị T xúc phạm anh M và gia đình anh M và hiện cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc. Tại phiên tòa chị T cũng thừa nhận chị T có xúc phạm anh M và cha, mẹ chồng như lời anh M trình bày.

[2] Hội đồng xét xử thấy: Mâu thuẫn vợ chồng giữa anh M và chị T xảy ra thời gian khoảng 02 năm, đã được gia đình hai bên hàn gắn nhưng không thành, hiện anh M và chị T mỗi người sống một nơi không còn quan tâm, chăm sóc nhau trong cuộc sống hằng ngày. Xét mâu thuẫn giữa chị T và anh M đã đến mức trầm trọng, cuộc sống hôn nhân của anh, chị không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Tại phiên tòa, anh M xác định không còn tình cảm với chị T nên yêu cầu xin ly hôn với chị T. Do đó Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận yêu cầu của anh M, cho anh M ly hôn với chị T.

[3] Về con chung: Chị T và anh M có 01 người con chung tên Nguyễn Thiên K, sinh ngày 27/12/2014, hiện đang sống với chị T. Khi ly hôn anh M và chị T đều yêu cầu được nuôi con chung, không yêu cầu người không trực tiếp 2 nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử thấy: Từ trước đến nay cháu Thiên K sống chung với chị T, việc học tập, sinh hoạt của cháu đều do chị T lo lắng, chăm sóc. Đối với anh M làm nghề láy tàu, thời gian làm việc không ổn định sẽ rất ảnh hưởng đến việc chăm sóc con cái, nếu giao cháu Nguyễn Thiên K cho anh M chăm sóc, nuôi dưỡng thì quyền lợi của cháu không được đảm bảo bằng giao cho chị T. Do đó, Hội đồng thấy cần giao cháu K cho chị T trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp. Do chị T không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[4] Anh M và chị T xác định vợ chồng anh, chị không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều: 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Văn M, cho anh Nguyễn Văn M ly hôn với chị Đào Kiều T.

Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thiên K, sinh ngày 27/12/2014 cho chị Đào Kiều T trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Không đặt ra nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Anh Nguyễn Văn M có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, anh Nguyễn Văn M phải chịu 300.000 đồng. Ngày 08/5/2019, anh M có nộp tạm ứng án phí số tiền 300.000 đồng theo biên lai thu số 0000081 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cà Mau, được chuyển thu nộp ngân sách nhà nước.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 123/2019/HNGĐ-ST ngày 25/06/2019 về xin ly hôn

Số hiệu:123/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về