Bản án 123/2018/HS-ST ngày 28/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VÂN HỒ - TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 123/2018/HS-ST NGÀY 28/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 125/2018/TLST-HS ngày 14 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 124/2018/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Trịnh Văn H; tên gọi khác: (Bùi Văn H); sinh năm 1974 tại huyện Y, tỉnh Nam Định; Nơi cư trú: Tiểu khu T, thị trấn Nông Trường M, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trịnh Văn H (đã chết) và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1948; bị cáo có vợ là Lê Thị Ng, sinh năm 1977 và 05 con; tiền án: Không; tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 15/10/2007, Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Sơn La xử phạt 24 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích; chấp hành xong hình phạt tù ngày 19/6/2009, chấp hành án phí ngày HSST ngày 19/3/2008. (đã được xóa án tích)

Bị bắt giam giữ ngày 08/10/2018, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện M, tỉnh Sơn La. Có mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Giàng A K, sinh năm 1979, nơi cư trú: Bản C, xã L, huyện V, tỉnh Sơn La. Vắng mặt.

Người chứng kiến:

- Anh Lê Văn D, sinh năm 1992; Trú tại: Bản B, xã V, huyện V, tỉnh Sơn La. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 08/10/2018, tổ công tác Công an huyện V đang làm nhiệm vụ tại bản P, xã V, huyện V, tỉnh Sơn La, tiến hành kiểm tra đối với Trịnh Văn H. Qua kiểm tra, phát hiện Trịnh Văn H đang cất giấu trong người 01 gói nilon màu trắng bên trong đựng 08 viên nén màu hồng, trên bề mặt các viên đều có ký hiệu WY. H khai nhận đó là 08 viên Hồng phiến của H tàng trữ để sử dụng cho bản thân.

Tang vật thu giữ gồm: 01 gói nilon màu trắng bên trong đựng 08 viên nén màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có ký hiệu WY. 01 xe máy nhãn hiệu YAMAHA loại SIRIUS BKS: 26G1-5980 màu sơn đỏ đen, số máy 5C64-942208, số khung RLCS5C640CY942222.

Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V tiến hành cân tịnh, xác định khối lượng 08 viên nén màu hồng thu giữ của Trịnh Văn H được 0,84 gam, lấy 0,43 gam làm mẫu giám định ký hiệu H, mẫu ký hiệu H được Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La giám định chất ma túy, loại chất ma túy, khối lượng ma túy.

Tại kết luận giám định số: 1089 ngày 12/10/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã kết luận:“Mẫu gửi giám đinh ký hiệu H là chất ma túy; loại chất Methamphetamine, tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,43 gam. Tổng khối lượng chất ma túy thu giữ được là 0,84 gam, loại chất Methamphetamine”.

Tại bản cáo trạng số 96/CT-VKS ngày 14/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Sơn La đã truy tố bị cáo Trịnh Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát huyện V giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh và điều luật áp dụng như nội dung cáo trạng; qua phân tích, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Trịnh Văn H từ 18 (Mười tám) tháng tù đến đến 24 (hai mươi tư) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với Trịnh Văn H.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đã niêm phong bên trọng đựng 0,41 gam Methamphetamine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu, 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Trịnh Văn H. Chấp nhận Cơ quan điều tra trả lại cho anh Giàng A K 01 chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA loại SIRIUS BKS: 26G1-5980 màu sơn đỏ đen, số máy 5C64-942208, số khung RLCS5C640CY942222.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Ý kiến bị cáo: Nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của Kiểm sát viên không có tranh luận gì.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố Trịnh Văn H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định có tội: Tại phiên tòa bị cáo Trịnh Văn H khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và được chứng minh bằng các tài liệu chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản niêm phong đồ vật tài liệu bị tạm giữ, Kết luận giám định số 1089 ngày 12/10/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, Lời khai của người chứng kiến anh Lê Văn D, Bản tự khai Biên bản ghi lời khai, Biên bản hỏi cung bị can cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Ngày 08/10/2018, bị cáo Trịnh Văn H đã có hành vi tàng trữ 0,84 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng cho bản thân. Trên cơ sở đó, có đủ căn cứ kết luận bị cáo Trịnh Văn H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định.

[3] Các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, làm lây lan phát sinh các tệ nạn xã hội, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn tàng trữ ma túy để sử dụng, bản thân đã từng bị kết án tuy được xóa án tích nhưng không chịu hoàn lương nay tiếp tục phạm tội thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Vì vậy, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới tương xứng mức độ phạm tội của bị cáo, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

Bị cáo Trịnh Văn H đang bị tạm giam, Hội đồng xét xử thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Ngoài hình phạt chính là phạt tù bị cáo Trịnh Văn H còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với nguồn gốc số ma túy thu giữ: Theo lời khai của Trịnh Văn H mua của một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết tại đường dân sinh bản P, xã V, huyện V, nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý người bán ma túy cho Trịnh Văn H.

[4] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 phong bì đã niêm phong bên trọng đựng 0,41 gam Methamphetamine còn lại cùng vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Trịnh Văn H là những vật cấm lưu hành hoặc không còn giá trị sử dụng tuyên tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA loại SIRIUS BKS: 26G1-5980 màu sơn đỏ đen, số máy 5C64-942208, số khung RLCS5C640CY942222 là tài sản hợp pháp của anh Giàng A K, việc Trịnh Văn H dùng xe làm phương tiện đi mua ma túy anh K không biết, Ngày 13/11/2018 Cơ quan điều tra Công an huyện V đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho anh Giàng A K là có căn cứ đúng pháp luật được chấp nhận.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:

1.Tuyên bố bị cáo Trịnh Văn H (tên gọi khác Bùi Văn H) phạm tội: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Trịnh Văn H 20 (hai mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08/10/2018 (là ngày bị bắt đối với bị cáo).

2. Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, các điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đã niêm phong bên trọng đựng 0,41 gam Methamphetamine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu, 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Trịnh Văn H. Chấp nhận Cơ quan điều tra Công an huyện V trả lại cho anh Giàng A K 01 chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA loại SIRIUS BKS: 26G1-5980 màu sơn đỏ đen, số máy 5C64-942208, số khung RLCS5C640CY942222.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 123/2018/HS-ST ngày 28/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:123/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vân Hồ - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về