Bản án 123/2017/HSST ngày 05/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 123/2017/HSST NGÀY 05/09/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05/9/2017 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 113/2017/HSST ngày 04 tháng 7 năm 2017 đối với bị cáo:

Tòng Văn H, sinh ngày 06/8/1973 tại Sơn La; Nơi ĐKNKTT: Bản B, phường C, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; Chỗ ở hiện nay: Tổ 4, phường C, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 9/10; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Đảng phái, đoàn thể: Không; Con ông Tòng Văn K, sinh năm 1940 và Cà Thị M, sinh năm 1942; Có vợ là Quàng Thị A, sinh năm 1973 và 02 con (con lớn sinh năm 2002, con nhỏ sinh năm 2004); Không tiền án, tiền sự; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/3/2017 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo Tòng Văn H bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Hồi 08 giờ 30 phút ngày 23/3/2017 tại khu vực tổ 09, phường Tô Hiệu, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La, Tòng Văn H bị tổ công tác phòng PC47 - Công an tỉnh Sơn La phát hiện, bắt quả tang khi đang có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm: 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, bên trong đựng một gói giấy màu trắng chứa chất cục, bột màu trắng (thu giữ trong túi quần bên phải phía trước Tòng Văn H đang mặc, H khai nhận là hêrôin). Ngoài ra còn tạm giữ của Tòng Văn H: 01 điện thoại di động Nokia 301; 01 xe máy hiệu Honda Wave màu đen bạc, BKS 26K7- 9786 đều qua sử dụng.

Quá trình điều tra, Tòng Văn H khai nhận:

Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 23/3/2017, Tòng Văn H gặp Hòa (cùng là bạn nghiện, H không biết họ tên đầy đủ, địa chỉ của Hòa) tại khu vực cầu Dây văng thuộc địa phận tổ 5, phường Tô Hiệu, thành phố Sơn La. Hòa rủ H góp tiền cùng đi mua ma túy về sử dụng chung, cả 2 thống nhất Hòa góp 1.100.000đ (một triệu một trăm nghìn đồng), còn H góp 100.000đ (một trăm nghìn đồng) được tổng số tiền là 1.200.000đ (một triệu hai trăm nghìn đồng). Sau đó, H chở Hòa bằng xe máy hiệu Honda Wave BKS 26K7 - 9786 đến khu vực Cây xăng bản Hôm, xã Chiềng Cọ, thành phố Sơn La để tìm mua hêrôin. Tại đây, H bảo Hòa đứng trông xe, còn mình thì đi bộ sang bên kia đường gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 01 gói hêrôin đựng trong vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng với giá 1.200.000đ (một triệu hai trăm nghìn đồng). Sau khi mua được hêrôin, H cất vào túi quần bên phải đang mặc rồi cùng Hòa điều khiển xe máy quay lại thành phố Sơn La tìm nơi sử dụng. Khi đi đến khu vực tổ 9, phường Tô Hiệu, thành phố Sơn La, Hòa bảo H dừng xe để Hòa đi mua thuốc lá. Đang đứng đợi Hòa thì H bị bắt quả tang cùng toàn bộ vật chứng thu giữ.

Ngày 23/3/2017 phòng PC47 - Công an tỉnh Sơn La đã thành lập Hội đồng bóc, mở niêm phong, cân tịnh vật chứng và lấy mẫu gửi giám định, kết quả: Chất cục, bột màu trắng thu giữ của Tòng Văn H có trọng lượng 1,25 gam. Lấy 0,2 gam (ký hiệu H1) làm mẫu gửi phòng Kỹ thuật hình sự (PC54) - Công an tỉnh Sơn La, giám định chất ma túy.

Tại Kết luận giám định số 376/KLMT ngày 28/3/2017 của phòng Kỹ thuật hình sự (PC54) - Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu H1 là chất ma túy, loại chất hêrôin, trọng lượng gửi giám định là 0,2 gam; Tổng trọng lượng chất ma túy thu giữ là 1,25 gam”.

Về nguồn gốc số hêrôin bị thu giữ: Bị cáo Tòng Văn H khai cùng một người đàn ông tên Hòa góp tiền mua của một người đàn ông tại khu vực cây xăng bản Hôm, xã Chiềng Cọ, thành phố Sơn La, nhưng H không biết họ tên, địa chỉ cụ thể của người tên Hòa và người đàn ông đã bán ma túy cho H. Ngoài lời khai của bị cáo không còn chứng cứ nào khác chứng minh, do đó, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La không có căn cứ điều tra mở rộng vụ án.

Do có hành vi nêu trên tại bản cáo trạng số: 79/KSĐT ngày 28/6/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La đã truy tố bị cáo Tòng Văn H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo Tòng Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Tòng Văn H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. 

Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm h, i khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội khóa 14; khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249, điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015:

Xử phạt Tòng Văn H từ 30 đến 36 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự; điểm a, đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) chiếc phong bì công văn của Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Sơn La đã niêm phong, mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng lưu kho vụ Tòng Văn H - Tàng trữ trái phép chất ma tuý, bắt ngày 23/3/2017 (gồm trọng lượng: 1,05 gam chất bột màu trắng + 01 phong bì niêm phong đã bị bóc mở + 01 (một) mảnh giấy màu trắng + 01 (một) vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng”, mặt sau có hai dấu tròn đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Sơn La và chữ ký của thành phần tham gia niêm phong;

- Trả lại cho bị cáo Tòng Văn H: 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, model 301, số Imei 1: 359212/05/882368/1, số Imei 2: 359212/05/882369/9 qua sử dụng; 01 (một) chiếc sim điện thoại Mobifone, số sim 4 số cuối 3726 qua sử dụng.

Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa , bị cáo Tòng Văn H nhận tội và không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; Trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện tài liệu chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Do nghiện chất ma túy, ngày 23/3/2017, Tòng Văn H đã có hành vi cất giấu trái phép 1,25 gam hêrôin với mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang tại khu vực tổ 09, phường Tô Hiệu, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La.

Tại phiên tòa bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ:

- Lời khai nhận tội của bị cáo;

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 09 giờ 15 phút ngày 23/3/2017 tại trụ sở Công an phường Tô Hiệu, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La đối với Tòng Văn H cùng vật chứng thu giữ là 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, bên trong đựng một gói giấy màu trắng chứa chất cục, bột màu trắng, có trọng lượng 1,25 gam; Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong kiểm tra vật chứng và niêm phong lại; Biên bản bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại; Kết luận giám định số 376/KLMT ngày 28/3/2017 của phòng Kỹ thuật hình sự (PC54) - Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu H1 là chất ma túy, loại chất hêrôin, trọng lượng gửi giám định là 0,2 gam; Tổng trọng lượng chất ma túy thu giữ là 1,25 gam”.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của ông Vũ Công T, sinh năm 1959, trú tại tổ 8, phường T, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La là người chứng kiến việc bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với kết quả điều tra.

Đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Tòng Văn H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 194 Bộ luật Hình sự.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, thấy rằng: Bị cáo Tòng Văn H phạm tội với trọng lượng 1,25 gam hêrôin, vi phạm tình tiết định khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự, khung hình phạt có mức hình phạt tù từ hai năm đến bảy năm và thuộc trường hợp nghiêm trọng.

Hội đồng xét xử thấy rằng: Tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương. Do đó, cần lên mức án tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm đảm bảo biện pháp cải tạo giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên khi áp dụng hình phạt cần cân nhắc về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999. Bố bị cáo là ông Tòng Văn K là người có công với cách mạng, được tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng nhì nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Trong khi lượng hình, Hội đồng xét xử có xem xét áp dụng điểm h, i khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội khóa 14; khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 về việc áp dụng điều khoản có lợi cho người phạm tội theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015. Theo đó, khung hình phạt của tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định mức phạt tù từ 01 năm đến 05 năm, nhẹ hơn khung hình phạt quy định tại khoản1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999. Do đó cần xem xét áp dụng khung hình phạt theo hướng có lợi cho bị cáo và áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bố bị cáo là  ông Tòng Văn K là người có công với cách mạng theo quy định tại điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Về hình phạt bổ sung (phạt tiền) theo quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản riêng có giá trị, xét việc áp dụng hình phạt bổ sung không có khả năng thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Đối với người đàn ông tên Hòa góp 1.100.000đ (một triệu một trăm nghìn đồng) cùng H mua ma túy của một người đàn ông tại khu vực cây xăng bản Hôm, xã Chiềng Cọ, thành phố Sơn La, H không biết họ tên, địa chỉ cụ thể của người tên Hòa và người đàn ông đã bán ma túy cho H. Ngoài lời khai của bị cáo không còn chứng cứ nào khác chứng minh. Do đó, Tòng Văn H buộc phải chịu trách nhiệm về số ma túy bị thu giữ.

Vật chứng vụ án:

Đối với 1,05 (một phẩy không năm) gam hêrôin còn lại sau khi trừ đi số lượng đưa đi giám định đã được niêm phong theo quy định của pháp luật là loại hàng Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy cùng 01 (một) mảnh giấy màu trắng, 01 (một) vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng là giấy gói hêrôin, 01 vỏ phong bì niêm phong đã bị bóc mở.

Đối với 01 (một) chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia thu giữ của bị cáo kèm 01 (một) sim điện thoại Vinafone, quá trình điều tra xác định là tài sản của bị cáo mang theo khi phạm tội, không liên quan đến vụ án, cần trả lại cho bị cáo.

Đối với 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda loại xe Wave màu đen bạc, BKS 26K7-9786, đã qua sử dụng. Quá trình điều tra xác định chiếc xe là tài sản bà Tòng Thị H, sinh năm 1969; Trú tại: Tổ 5, phường Q, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La là chị gái Tòng Văn H cho H mượn để phục vụ sinh hoạt gia đình. Bà Tòng Thị H không biết việc H sử dụng xe để đi mua ma túy, do đó ngày 13/6/2017 Cơ quan điều tra – Công an thành phố Sơn La đã ra quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại tài sản cho bà Tòng Thị H là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật, cần chấp nhận

Do hành vi phạm tội của bị cáo nên buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Tòng Văn H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm h, i khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội khóa 14; khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249, điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015:

Xử phạt Tòng Văn H 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 23/3/2017). Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo thi hành án.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự; điểm a, đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự: 

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) chiếc phong bì công văn của Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Sơn La đã niêm phong, mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng lưu kho vụ Tòng Văn H - Tàng trữ trái phép chất ma tuý, bắt ngày 23/3/2017 (gồm trọng lượng: 1,05 gam chất bột màu trắng + 01 phong bì niêm phong đã bị bóc mở + 01 (một) mảnh giấy màu trắng + 01 (một) vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng”, mặt sau có hai dấu tròn đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Sơn La và chữ ký của thành phần tham gia niêm phong;

- Trả lại cho bị cáo Tòng Văn H: 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, model 301, số Imei 1: 359212/05/882368/1, số Imei 2: 359212/05/882369/9 qua sử dụng; 01 (một) chiếc sim điện thoại Mobifone, số sim 4 số cuối 3726 qua sử dụng.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/7/2017 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Tòng Văn H phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 05/9/2017)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 123/2017/HSST ngày 05/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:123/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về