TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 123/2017/HS-PT NGÀY 01/08/2017 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 01 tháng 8 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 83/2017/TLPT-HS ngày 05 tháng 6 năm 2017 đối với các bị cáo Ngô Lê Võ P, Đoàn Văn B và Lê Văn V do có kháng cáo của người đại diện hợp pháp của các bị cáo bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 86/2017/HS-ST ngày 20/4/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.
- Các bị cáo có kháng cáo:
1/. Bị cáo Ngô Lê Võ P, sinh ngày 30/7/1999. Nơi ĐKTT: Số 194/8, đường M, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang; chỗ ở: Nhà trọ 6 H, khu phố 3, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang; trình độ văn hóa: 2/12; nghề nhiệp: Ngư phủ; con ông Ngô Văn P1 và bà Lê Thị G; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 01/12/2016. (Có mặt)
2/. Bị cáo Đoàn Văn B, sinh ngày 02/10/1999. Nơi ĐKTT: Số 194/8, đường M, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang; chỗ ở: Nhà trọ Bà L, khu phố 3, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang; trình độ văn hóa: Không biết chữ; nghề nhiệp: Ngư phủ; con bà Ngô Ngọc M; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 09/01/2017. (Có mặt)
3/. Bị cáo Lê Văn V, sinh ngày 25/12/2000. Nơi cư trú: Số 757, ấp T, xã P, thành phố R, tỉnh Kiên Giang; trình độ văn hóa: 02/12; nghề nhiệp: Ngư phủ; con ông Lê Văn S và bà Nguyễn Thị M; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 19/01/2017. (Có mặt)
- Người đại diện hợp pháp của các bị cáo có kháng cáo:
1/. Người đại diện hợp pháp cho bị cáo Ngô Lê Võ P: Bà Lê Thị G, sinh năm 1975.
Ông Ngô Văn P1, sinh năm 1974 (cha bị cáo).
Nơi ĐKTT: Số 194/8, đường M, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang;
Chỗ ở: Nhà trọ 6 H, khu phố 3, phường V, TP. R, tỉnh Kiên Giang; là mẹ của bị cáo; (Có mặt)
2/. Người đại diện hợp pháp cho bị cáo Đoàn Văn B: Bà Ngô Ngọc M, sinh năm 1970;
Nơi ĐKTT: 194/8, đường M, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang;
Chỗ ở: Nhà trọ Bà L, khu phố 3, phường V, TP. R, tỉnh Kiên Giang; là mẹ của bị cáo; (Có mặt)
3/. Người đại diện hợp pháp cho bị cáo Lê Văn V: Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1961;
Nơi cư trú: Số 757, ấp T, xã P, TP. R, tỉnh Kiên Giang; là mẹ của bị cáo; (Có mặt)
- Người bào chữa cho các bị cáo:
Luật sư Nguyễn Thị Hồng Ngọc – Cộng tác viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước, tỉnh Kiên Giang. (Có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 05/9/2016, tàu cá của ông Trương Hoàng S đang đánh bắt trên vùng biển Kiên Giang đến 21 giờ cùng ngày, Ngô Lê Võ P, Đoàn Văn B, Lê Văn V và Trần Khánh D cùng với những người có tên là P2, Đ, Đ1, Q (chưa rõ lai lịch) là ngư phủ trên tàu cái số hiệu KG-98493, tổ chức uống rượu trên boong tàu, các ngư phủ còn lại ngủ trong cabin.
Đến khoảng 02 giờ ngày 06/9/2016, sau khi uống hết hơn 05 lít rượu thì V có hát cho mọi người nghe. Do V hát không hay vì khàn giọng nên D lên tiếng chửi thề và chê giọng hát của V. Thấy hai bên xảy ra cự cãi, P can ngăn và khuyên D đi ngủ. Sau đó, D vào cabin còn mọi người ở lại tiếp tục uống rượu và ca hát. Khoảng 30 phút sau, D trở ra bàn nhậu lên tiếng chửi thề và thách thức đánh nhau với cả nhóm. Hai bên cự cãi với nhau, B, V và P xông đến dùng tay đánh D, B và V đánh trúng vào mặt D, P lấy nồi nhôm ném D nhưng không trúng. Thấy D bỏ chạy vào cabin, B và V mỗi người lấy một đoạn dây xích bằng inox dài khoảng 50cm trên boong tàu, P vào bếp lấy cây dao yếm cán bằng sắt dài khoảng 30 cm, cả 3 cùng nhau rượt đuổi D. D chạy xuống buồng lái gặp anh Mai Văn U là tài công nhờ can ngăn thì bị B đuổi kịp và dùng dây xích đánh trúng chân. D tiếp tục chạy lên cabin gặp anh Phạm Văn T kêu cứu. Bảo dùng dây xích đánh về phía D, anh T đưa tay chụp dây xích can ngăn và bị B đe dọa nếu anh T không buông ra thì B sẽ đánh luôn anh T. Cùng lúc đó, V chạy đến dùng dây xích đánh D nhưng không trúng, P xông đến dùng dao yếm chém liên tiếp trúng vào cổ tay trái, đầu và vai trái D gây thương tích. D nhảy xuống biển và bơi qua chiếc tàu đực kêu cứu.
Khoảng 10 phút sau, P ngậm dao vào miệng cùng V nhảy và bơi sang chiếc tàu đực, thấy P cầm dao nên anh T1 (là ngư phủ) can ngăn và giật lấy dao của P ném xuống biển. P tiếp tục đi lấy mỏ-lếch và V lấy 01 chiếc đục sắt định xông đến đánh D nhưng được anh thức can ngăn nên không đánh được. B cũng bơi qua can ngăn không cho P và V tiếp tục đánh D.
Tại Bản án sơ thẩm số: 86/2017/HSST ngày 20/4/2017 Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang:
Áp dụng: Khoản 3 Điều 104; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; điểm e khoản 1 Điều 48, Điều 69, khoản 1 Điều 74, Điều 33 BLHS, xử phạt bị cáo Ngô Lê Võ P 04 (bốn) năm tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam 01/12/2016.
Áp dụng: Khoản 3 Điều 104; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47, Điều 69, khoản 1 Điều 74, Điều 33 BLHS, xử phạt bị cáo Đoàn Văn B 03 (ba) năm tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam 09/01/2017.
Áp dụng: Khoản 3 Điều 104; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 47, Điều 69, khoản 2 Điều 74, Điều 33 BLHS, xử phạt bị cáo Lê Văn V 02 (hai) năm tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam 19/01/2017.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, án phí và báo quyền kháng cáo theo luật định.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 03/05/2017, bà Ngô Ngọc M và bà Nguyễn Thị M kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Đoàn Văn B, Lê Văn V; ngày 05/05/2017 bà Lê Thị G kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Ngô Lê Võ P.
Tại phiên tòa vị đại diện Viện kiểm sát xác định đơn kháng cáo của người đại diện hợp pháp của các bị cáo là trong hạn luật định nên được xem xét giải quyết; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 2 Điều 248 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận đơn kháng cáo của người đại diện hợp pháp của các bị cáo, giữ nguyên mức án sơ thẩm đã tuyên đối với các bị cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, những người đại diện hợp pháp của các bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo. Đơn kháng cáo trong thời hạn luật định nên được cấp phúc thẩm xem xét giải quyết.
Ý kiến của Luật sư bào chữa cho các bị cáo:Thống nhất với Viện kiểm sát về tội danh như án sơ thẩm đã xét xử. Tuy nhiên đề nghị xem xét cho các bị cáo có hoàn cảnh gia đình đi làm thuê có tiền cho cha mẹ, thành khẩn khai báo, ăn năng hối cải. Nên kính mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức án cho các bị cáo để sớm trở về sum hợp với gia đình.
Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và không có ý kiến gì khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi phạm tội của các bị cáo:
Vào lúc 21 giờ ngày 05/9/2016, các bị cáo Ngô Lê Võ P, Đoàn Văn B, Lê Văn V, Trần Khánh D cùng với một số ngư phủ khác tổ chức uống rượu trên tàu của ông Trương Hoàng S. Đến khoảng 02 giờ ngày 06/9/2016, sau khi uống hết hơn 05 lít rượu, chỉ vì một mâu thuẫn nhỏ do Trần Khánh D lên tiếng chửi thề và chê bai giọng hát của Lê Văn V. B, V và P xông đến dùng tay đánh D, thấy D bỏ chạy, B và V lấy mỗi người 01 đoạn dây xích dài 50cm, P chạy lấy cây dao yếm dài khoảng 30cm cùng đuổi theo D. Mặc dù, D bỏ chạy đến chỗ anh Phạm Văn T kêu cứu nhưng B, D và P không dừng lại mà tiếp tục đe dọa anh T nếu không buông dây xích ra thì sẽ đánh luôn anh T. Cùng lúc đó, V chạy đến dùng dây xích đánh anh D nhưng không trúng, P xông đến dùng dao chém liên tiếp trúng vào vùng cổ tay trái, vai trái và đầu anh D gây ra thương tích với tỷ lệ 32%.
Sau đó, anh D đã nhảy xuống biển bơi qua con tàu khác gần đó nhưng Phúc không từ bỏ mà ngậm thêm cây dao trên miệng cùng V nhảy xuống đuổi theo anh D. Khi lên tàu, được anh T1 cũng là ngư phủ trên chiếc tàu đó giật cây dao của bị cáo P ném xuống sông, không dừng lại ở đó, P tiếp tục lấy 01 cây mỏ lếch, V lấy 01 cây đục sắt định tiếp tục đánh D nhưng được anh T1 can ngăn nên không thực hiện được.
[2] Về tính chất của hành vi vi phạm:
Hành vi phạm tội của các bị cáo là vô cùng nguy hiểm. Các bị cáo đã có hành vi dùng hung khí rượt đuổi người bị hại, gây ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người bị hại. Với quyết tâm thực hiện hành vi đến cùng thể hiện qua việc đuổi đánh bị hại mặc dù bị hại đã bỏ chạy và cầu cứu sự giúp đỡ của người khác; các ngư phủ trên tàu ngăn cản nhưng các bị cáo không những không dừng lại mà còn lên tiếng đe dọa người can ngăn. Do đó, Tòa án cấp Sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.
[3] Xét kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt của người đại diện hợp pháp của các bị cáo Ngô Lê Võ P, Đoàn Văn B và Lê Văn V thấy rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo; xử phạt bị cáo Ngô Lê Võ P 04 (bốn) năm tù; Đoàn Văn B 03 (ba) năm tù và Lê Văn V 02 (hai) năm tù là phù hợp. Tại Tòa án cấp Phúc thẩm, người đại diện hợp pháp của các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo nhưng không có thêm được tình tiết giảm nhẹ nào mới để Hội đồng xét xử xem xét nên không có cơ sở để chấp nhận. Vì vậy, sau khi thảo luận và nghị án Hội đồng xét xử chấp nhận lời đề nghị của vị đại diện viện kiểm sát, không chấp nhận đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của người đại diện hợp pháp của các bị cáo, giữ nguyên mức hình phạt đã tuyên.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[4] Về án phí: Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên quyết định về hình sự của bản án sơ thẩm cho nên người kháng cáo là bà M, bà G, bà M phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 248 Bộ luật tố tụng hình sự
Không chấp nhận đơn kháng cáo của người đại diện hợp pháp của các bị cáo; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Áp dụng: Khoản 3 Điều 104; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; điểm e khoản 1 Điều 48, Điều 69, khoản 1 Điều 74, Điều 33 BLHS
Xử phạt: Bị cáo Ngô Lê Võ P 04 (bốn) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam 01/12/2016.
Áp dụng: Khoản 3 Điều 104; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47, Điều 69, khoản 1 Điều 74, Điều 33 BLHS
Xử phạt: Bị cáo Đoàn Văn B 03 (ba) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam 09/01/2017.
Áp dụng: Khoản 3 Điều 104; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 47, Điều 69, khoản 2 Điều 74, Điều 33 BLHS
Xử phạt bị cáo Lê Văn V 02 (hai) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”.
Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam 19/01/2017.
Về án phí: Bà M, bà G, bà M mỗi người phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của Bản án số: 86/2017/HSST ngày 20/04/2017 của Toà án nhân dân thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 123/2017/HS-PT ngày 01/08/2017 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 123/2017/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 01/08/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về