Bản án 122/2021/HS-ST ngày 20/05/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BA ĐÌNH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 122/2021/HS-ST NGÀY 20/05/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ba Đình, Tp Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 148/TLHS-ST ngày 10/8/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 161 /2020/QĐXXST-HS ngày 07/5/2021 đối với bị cáo:

Vũ Thị T - sinh năm 1977; HKTT: thôn V, xã Đ, huyện H, tỉnh T; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 3/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vũ Văn Thiệp (đã chết) và bà Nguyễn Thị Tiến; có chồng đã ly hôn và 01 con sinh năm 2007; Theo lý lịch địa phương cung cấp và DCB số 013 ngày 09/3/2021 tại công an quận Ba Đình; Tiền án, tiền sự: không; Bị bắt tạm giữ từ ngày 21/11/2021 - Có mặt tại phiên tòa;

* Người bị hại: Cụ bà Nguyễn Thị Thanh H (Sinh năm: 1940); HKTT: Số 14 Sơn Tây, Điện Biên, Ba Đình, Hà Nội; - có mặt tại phiên tòa;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng giữa tháng 7 năm 2020, Vũ Thị T được ông Phạm Ngọc Anh (SN:

1964; HKTT: Số 14 Sơn Tây, Điện Biên, Ba Đình, Hà Nội) nhận vào làm giúp việc cho gia đình tại nhà số 14 Sơn Tây. Quá trình sinh sống, làm việc tại gia đình của ông Ngọc Anh, Thuý biết bà Nguyễn Thị Thanh H (SN: 1940; Cùng trú tại số 14 Sơn Tây, là mẹ đẻ của ông Ngọc Anh) cất giữ tiền đô la Mỹ (USD) trong tủ quần áo tại tầng 1. Do cần tiền tiêu sài nên Vũ Thị T nảy sinh ý định trộm cắp tiền trong tủ quần áo của bà H. Tổng cộng T đã trộm cắp tài sản 03 lần của bà H trong khoảng thời gian từ đầu tháng 9 đến cuối tháng 10 năm 2020, cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Vào trưa ngày đầu tháng 9 năm 2020, lợi dụng lúc ông Phạm Ngọc Anh đi ra ngoài, bà Nguyễn Thị Thanh H ngủ trưa tại tầng 2, Vũ Thị T tiến đến chiếc tủ gỗ nơi bà H để tiền, mở cánh tủ bên phải lấy chìa khoá dưới chồng quần áo của ngăn thứ 3 rồi dung chìa khoá mở cửa tủ bên trái. T phát hiện một bọc túi nilong màu vàng ở đáy tủ, bên trong có một chiếc ví nữ màu tím, T mở chiếc ví ra thấy số tiền 5.000 USD bao gồm 50 tờ tiền mệnh giá 100 USD. T lấy trộm số tiền 1.000 USD rồi cất số tiền 4.000 USD còn lại vào vị trí cũ. T đợi khoảng 2 ngày sau không thấy sự việc bị phát hiện nên đã nghĩ đến cách đi tiêu thụ số tiền này. T một mình đi đến Ngân hàng Vietinbank, địa chỉ tại số 31B Sơn Tây đổi số tiền 200 USD được hơn 4.605.200 đồng. Sau khi tiêu sài hết số tiền đã đổi, T tiếp tục chia nhỏ số tiền 800 USD còn lại, mang đến cửa hàng vàng bạc Phi Ngân tại số 66 Sơn Tây, Ba Đình, Hà Nội để đổi sang tiền Việt Nam đồng, mỗi lần Thuý đổi 100 – 300 USD.

Lần thứ hai: Vào một buổi tối ngày đầu tháng 10 năm 2020, T tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp số tiền 2.000 USD cũng bằng thủ đoạn như trên. Số tiền này T tiếp tục chia nhỏ thành số tiền từ 100 USD đến 300 USD để đổi nhiều lần tại cửa hàng vàng Phi Ngân lấy tiền Việt Nam Đồng tiêu sài.

Lần thứ ba: Vào buổi tối ngày cuối tháng 10 năm 2020, với phương thức thủ đoạn như hai lần trước, T đã trộm cắp số tiền 2.000 USD của bà H, sau đó tiếp tục chia nhỏ số tiền mang đến cửa hàng vàng Phi Ngân để đổi sang tiền Việt Nam Đồng. Để tránh bị phát hiện, che dấu hành vi trộm cắp của bản thân, Vũ Thị T mua tiền vàng mã (loại in hình tiền Đô la Mỹ mệnh giá 100 USD mỗi tờ) tại khu vực chợ Ngọc Hà, bọc túi và để lại vào vị trí cũ trong ngăn tủ giống như số tiền 5000 USD ban đầu của bà H. Sau đó, Thuý bỏ trốn về quê tại tỉnh Thanh Hóa. Toàn bộ số tiền bán Đô la Mỹ trộm cắp được, Thuý đã tiêu sài hết.

Ngày 17/11/2020, bà Nguyễn Thị Thanh H kiểm tra thì phát hiện số tiền 5.000 USD của mình đã bị đánh tráo bằng 45 tờ tiền vàng mã nên đã cùng ông Phạm Ngọc Anh trình báo Công an phường Điện Biên.

Ngày 21/11/2020, biết mình không thể trốn tránh pháp luật nên Vũ Thị T đã đến công an phường Điện Biên để đầu thú (BL 4, 8-10).

Cơ quan điều tra đã thu giữ của bị hại là bà Nguyễn Thị Thanh H 45 tờ giấy in hình tiền Đô la Mỹ, mặt sau ghi “Ngân hàng địa phủ”, mệnh giá mỗi tờ là 100 USD được gói trong túi nilong kính trong suốt, bên ngoài cuộn dây chun (BL 126).

Tại Cơ quan điều tra, Vũ Thị Thuý khai nhận hành vi phạm tội như nội dung nêu trên. Lời khai nhận của bị can phù hợp với lời khai của người bị hại, hiện trường cùng các tài liệu khác trong hồ sơ (BL 90 – 107, 115 – 115A, 120 – 121, 138 – 157,…).

Đối với số tiền 5000 USD là tài sản Vũ Thị Thuý trộm cắp của bị hại Nguyễn Thị Thanh H. Do không xác định được chính xác thời điểm gây án, căn cứ bảng tỷ giá ngoại tệ đồng đô la Mỹ do Ngân hàng TMCP Công tH Việt Nam – Chi nhánh Hoàn Kiếm cung cấp, giá trị 5000 USD được xác định như sau:

- Số tiền 1000 USD do Thuý chiếm đoạt vào đầu tháng 9/2020, áp dụng tỷ giá trung tâm đồng đô la Mỹ thấp nhất từ ngày 01/9/2020 đến ngày 10/9/2020 là 23.195 đồng/USD, tương đương 23.195.000 đồng (BL 34).

- Số tiền 2000 USD do Thuý chiếm đoạt vào đầu tháng 10/2020, áp dụng tỷ giá trung tâm đồng đô la Mỹ thấp nhất từ ngày 01/10/2020 đến ngày 10/10/2020 là 23.198 đồng/USD, tương đương 46.396.000 đồng (BL 61).

- Số tiền 2000 USD do Thuý chiếm đoạt vào cuối tháng 10/2020, áp dụng tỷ giá trung tâm đồng đô la Mỹ thấp nhất từ ngày 21/10/2020 đến ngày 31/10/2020 là 23.180 đồng/USD, tương đương 46.360.000 đồng (BL 70).

Tổng giá trị tài sản Vũ Thị Thuý đã chiếm đoạt của bà Nguyễn Thị Thanh H là 5000 USD, tương đương với 115.951.000 đồng. Ông Phạm Ngọc Anh – đại diện của bị hại đề nghị được bồi thường đối với toàn bộ tài sản bị chiếm đoạt.

Đối với bà Vũ Thị Minh là chủ cửa hàng vàng bạc Phi Ngân thực hiện hoạt động thu đổi ngoại tệ khi không có giấy phép. Bà Minh chỉ thừa nhận thu đổi của Thuý 02 lần với số tiền từ 100 – 300 USD/lần, với tổng số tiền thu mua dưới 1000 USD; các lần thu đổi khác không đủ căn cứ chứng minh do bà Vũ Thị Minh thu đổi. Khi thu đổi ngoại tệ của Thuý, bà Minh không biết là tài sản do phạm tội mà có, do đó Cơ quan điều tra không tiến hành xử lý đối với bà Minh về hành vi Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có quy định tại Điều 323 BLHS. Tuy nhiên, bà Vũ Thị Minh đã thực hiện hành vi mua ngoại tệ giữa cá nhân với nhau mà ngoại tệ mua có giá trị dưới 1000 đô la Mỹ, vi phạm các quy định về hoạt động ngoại hối theo điểm a, khoản 1, Điều 8, Mục 7 Nghị định 88/2019/NĐ-CP. Công an quận Ba Đình đã ra Quyết định xử phạt hành chính đối với bà Vũ Thị Minh hình thức Cảnh cáo về hành vi “Mua ngoại tệ trái phép” (BL 161A).

Tại bản cáo trạng số 75/CT-VKS ngày 14/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình, bị cáo Vũ Thị T bị truy tố về tội Trộm cắp tài sản theo điểm c khoản 2 điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ. Người bị hại là cụ Nguyễn Thị Thanh H đã nhận đủ số tiền 115.951.000 đồng tương đương với 5000 USD, là tiền mà bị cáo T lấy trộm của cụ, đồng thời cụ cũng đề nghị HĐXX xem xét đến hoàn cảnh khó khăn của gia đình bị cáo T đang phải một mình nuôi con, bị cáo cũng đã nhận ra lỗi để cho bị cáo T được hưởng mức án thấp nhất để bị cáo sớm có cơ hội làm lại cuộc đời.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội: Sau khi phân tích đánh giá chứng cứ, giữ nguyên quan điểm truy tố như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173, điểm s, b khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g, i khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Xử phạt: - Bị cáo Vũ Thị T từ 03 năm đến 04 năm tù;

Bị cáo không có nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt tiền.

Về dân sự : Người bị hại đã nhận được số tiền 115.951.000 đồng (một trăm mười lăm triệu chín trăm năm mươi mốt ngàn đồng) tương đương với 5.000USD là số tiền mà bị cáo T đã lấy trộm nên không có yêu cầu gì khác về dân sự nên không xét.

Về vật chứng: tịch thu tiêu hủy 45 tờ giấy in hình tiền đô la Mỹ, mệnh giá 100USD/1 tờ, ghi “Ngân hàng địa phủ” vì không có giá trị sử dụng.

Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội, bị cáo, người bị hại không có tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Ba Đình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có có ý kiến hoặc không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của người bị hại và các biên bản tài liệu khác có trong hồ sơ, đấy đủ cơ sở để kết luận: trong khoảng thời gian từ đầu tháng 9/2020 đến cuối tháng 10/2020, bị cáo Vũ Thị T là người giúp việc tại nhà số 14 phố Sơn Tây, phường Điện Biên, quận Ba Đình, Hà Nội, lợi dụng lòng tin người và sự sơ hở mất cảnh giác của cụ bà Nguyễn Thị Thanh H, bị cáo T đã 03 lần thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tiền là đô la Mỹ (USD) của cụ để trong tủ với tổng giá trị trộm cắp là 5000 USD, tương đương với 115.951.000 đồng. Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản với tổng trị giá là 115.951.000 đồng (một trăm mười lăm triệu chín trăm năm mươi mốt ngàn đồng) của bị cáo đã phạm vào tội Trộm cắp tài sản, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 2 điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tài sản thuộc sở hữu người khác, gây mất trật tự ổn định xã hội. Bị cáo là người trưởng thành, có nhận thức và hiểu biết pháp luật nhưng tham lợi bất chính mà đã thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu của người khác. Vì vậy, cần phải có mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian tương xứng với tính chất, mức độ hậu quả hành vi cũng như nhân thân bị cáo mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án tiền sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã đầu thú và thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, bị cáo và gia đình đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho người bị hại là cụ Nguyễn Thị Thanh H, cụ H đã nhận đủ số tiền bồi thường và không có yêu cầu gì khác, đồng thời có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì bị cáo đã nhận thức được hành vi phạm tội của mình. Bị cáo thuộc diện gia đình khó khăn (có Đơn xác nhận của UBND xã Đa Lộc) và hiện đang phải một mình nuôi con nhỏ đang học lớp 8, đo đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm b, r, s khoản 1 và 2 điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[6]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã 3 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, và thực hiện hành vi phạm tội với đối với người già trên 70 tuổi nên phải chịu tình tiết tăng nặng tại điểm g, i khoản 1 điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[7] Về hình phạt bổ sung: Tài liệu có trong hồ sơ cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với các bị cáo.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại cụ bà Nguyễn Thị Thanh H có đã được bị cáo và gia đình bị cáo bồi thường số tiền 115.951.000 đồng (một trăm mười lăm triệu chín trăm năm mươi mốt ngàn đồng) tương đương với 5.000USD là số tiền mà bị cáo T đã lấy trộm của cụ, nên cụ H không có yêu cầu gì khác. Đồng thời cụ H có Đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì bị cáo đã nhận thức được hành vi phạm tội của mình để bị cáo sớm có cơ hội làm lại cuộc đời và chăm lo cho con nhỏ.

[9]. Về vật chứng: đối với số tiền thu giữ của bị hại là 45 tờ giấy in hình tiền đô la Mỹ, mệnh giá 100USD/1 tờ, ghi “Ngân hàng địa phủ” vì không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy theo quy định tại Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.

[10] Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm. Bị cáo và người bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 173, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 điều 51, điểm g, i khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015; Căn cứ Điều 106, Điều 299, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016;

Tuyên bố bị cáo Vũ Thị T phạm tội “Trộm cắp tài sản” Xử phạt : Bị cáo Vũ Thị T 38 (ba mươi tám) tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 21/11/2020.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 45 tờ giấy in hình tiền đô la Mỹ, mệnh giá 100USD/1 tờ, ghi “Ngân hàng địa phủ” (tiền vàng mã) được gói trong túi nilon kính trong suốt, bên ngoài cuộn dây chun. Vật chứng hiện Chi cục Thi hành án dân sự quận Ba Đình đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng số 139 ngày 16/4/2021.

Bị cáo phải nộp và 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

344
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 122/2021/HS-ST ngày 20/05/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:122/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ba Đình - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về