Bản án 122/2020/HNGĐ-ST ngày 21/09/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 122/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 21 tháng 9 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 509/2020/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 6 năm 2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 135/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trương Thị H, sinh năm 1982; thường trú: Số 08/24B, khu phố L, phường H, thành phố A, tỉnh D; chỗ ở hiện nay: Ô C21, khu dân cư Minh Ngọc, khu phố TL, phường A, thành phố A, tỉnh D. Có đơn xin giải quyết vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Trần Công H1, sinh năm 1979; thường trú: Số 08/24B, khu phố L, phường H, thành phố A, tỉnh D; chỗ ở hiện nay: Ô C21, khu dân cư Minh Ngọc, khu phố TL, phường A, thành phố A, tỉnh D. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 03/6/2020, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Trương Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Sau một thời gian tìm hiểu, chị Trương Thị H và anh Trần Công H1 tự nguyện về sống chung từ năm 2002. Vợ chồng có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh H theo Giấy chứng nhận kết hôn ngày 20/3/2002.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại: Số 08/24B, khu phố L, phường H, thành phố A, tỉnh D đến năm 2015 thì chuyển về sinh sống tại: Ô C21, khu dân cư Minh Ngọc, khu phố TL, phường A, thành phố A, tỉnh D. Vợ chồng chung sống không hạnh phúc, anh H1 không lo làm ăn, tụ tập bạn bè chơi bời, cầm cố xe và vay nợ nH1 người. Suốt thời gian sống chung anh H1 không quan tâm, không phụ giúp chị nuôi các con mà còn chửi bới, lăng mạ vợ con. Vì thương con chị H cố gắng chịu đựng, nH1 lần khuyên nhủ nhưng anh H1 không thay đổi nên vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã nhau. Thời gian gần đây chị còn phát hiện anh H1 sử dụng ma túy, chị có khuyên anh H1 đi cai nghiện nhưng anh không chịu. Chị H xác định vợ chồng không còn quan tâm, chăm sóc nhau, mạnh ai nấy sống, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn với anh H1.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Trần Thị Khánh B, sinh ngày 16/7/2003 và Trần Tuấn V, sinh ngày 09/02/2008. Khi ly hôn chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung và không yêu cầu anh H1 có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Đối với bị đơn anh Trần Công H1: Tòa án đã tống đạt văn bản tố tụng yêu cầu bị đơn có ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 31/7/2020 nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do. Nguyên đơn có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải, do vậy vụ án không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án đã tống đạt văn bản tố tụng yêu cầu bị đơn tham gia phiên tòa vào các ngày 01/9/2020 và 21/9/2020 nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do. Việc giải quyết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được xem xét trên cơ sở chứng cứ do nguyên đơn cung cấp và do Tòa án thu thập.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa: Quá trình tố tụng, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, nguyên đơn đã chấp hành và tuân theo pháp luật đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về sự vắng mặt của đương sự: Nguyên đơn có yêu cầu giải quyết vắng mặt, bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do nên Tòa án căn cứ vào Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt các đương sự là đúng quy định.

Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận các yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát, Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa vào ngày 01/9/2020 và 21/9/2020 nhưng vắng mặt không có lý do, căn cứ Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về nội dung: Chị Trương Thị H và anh Trần Công H1 là vợ chồng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh H theo Giấy chứng nhận kết hôn quyển số 02 ngày 20/3/2002 nên là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Chị H xác định sau khi kết hôn vợ chồng phát sinh nH1 mâu thuẫn nên chung sống không hạnh phúc. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh H1 không lo làm ăn, tụ tập bạn bè chơi bời, cầm cố xe và vay nợ nhiều người, không quan tâm, không phụ giúp chị nuôi các con mà còn chửi bới, lăng mạ vợ con. Chị H nhiều lần khuyên nhủ nhưng anh H1 không thay đổi nên vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã nhau. Tòa án đã xác minh tình trạng hôn nhân tại Hội liên hiệp phụ nữ phường Dĩ An nhưng Hội liên hiệp phụ nữ phường không biết nguyên nhân các mâu thuẫn vợ chồng. Quá trình tố tụng, Tòa án đã triệu tập anh H1 đến Tòa án để hòa giải hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh H1 không đến, đồng thời chị H có đơn từ chối hòa giải. Căn cứ vào lời khai của nguyên đơn có cơ sở xác định trong cuộc sống vợ chồng có nhiêu mâu thuẫn, tình trạng đã trầm trọng và cả hai đều không muốn hàn gắn. Vì vậy, yêu cầu ly hôn của chị H là có cơ sở chấp nhận theo quy định tại Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Trần Thị Khánh B, sinh ngày 16/7/2003 và Trần Tuấn V, sinh ngày 09/02/2008. Khi giải quyết việc ly hôn, Tòa án cần xem xét đến sự phát triển của con chưa thành niên để quyết định việc giao con cho cha hay mẹ trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy, cháu B và cháu V có nguyện vọng được ở với chị H, từ trước đến nay chung sống với chị H, được chị H chăm sóc, nuôi dưỡng tốt, quá trình tố tụng anh H1 không có ý kiến gì về việc chị H yêu cầu được nuôi dưỡng các con chung. Căn cứ Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án giao con chung cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của chị H về việc không yêu cầu anh H1 có nghĩa vụ cấp dưỡng.

[4] Tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Ý kiến của Viện kiểm sát phù hợp với quan điểm của Tòa án nên chấp nhận.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Trương Thị H phải chịu án phí ly hôn theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 147, Điều 228, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ vào các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Căn cứ Điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Trương Thị H về tranh chấp ly hôn, nuôi con đối với bị đơn anh Trần Công H1.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Trương Thị H được ly hôn với anh Trần Công H1 (Theo Giấy chứng nhận kết hôn ngày 20/3/2002 do Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh H cấp).

- Về con chung: Anh Trần Công H1 giao con chung tên Trần Thị Khánh B, sinh ngày 16/7/2003 và Trần Tuấn V, sinh ngày 09/02/2008 cho chị Trương Thị H trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của chị H về việc không yêu cầu anh H1 có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

- Tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Trương Thị H phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0040716 ngày 11/6/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

3. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 122/2020/HNGĐ-ST ngày 21/09/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:122/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về