Bản án 122/2019/HS-PT ngày 27/02/2019 về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 122/2019/HS-PT NGÀY 27/02/2019 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 27 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số71/2019/TLPT-HS, ngày 11/01/2019 đối với bị cáo Nguyễn Thanh T do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thanh T đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 170/2018/HSST ngày 30/11/2018 của Tòa án nhân dân Quận W, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Thanh T (Tên gọi khác: không); giới tính: N; sinh năm: 1984, tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: Số 56 đường số 30, phường TTB, Quận Q, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 3/12; nghề nghiệp: không; Con ông Nguyễn Văn C (đã chết) và bà Trịnh Thị R - sinh năm: 1959; có vợ là Võ Trần Phương U - sinh năm: 1992 và 01 con sinh năm 2013; tiền sự, tiền án: không. Về nhân thân: Tại Bản án số 1155/2009/HSPT ngày 20/7/2009 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã xử phạt bị cáo 02 (hai) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”.

Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 01/5/2018. (Có mặt tại phiên tòa)

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thanh T: Luật sư Lê Nguyễn Quỳnh T, thuộc Văn phòng luật sư Quỳnh T, Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh.

- Trong vụ án còn có những người tham gia tố tụng khác (không kháng có và không bị kháng nghị) gồm:

+ Các bị cáo không kháng cáo gồm: Dương Phan T, Huỳnh Văn D; Trương Hoài P; Ngô Thành N; Trần Thanh T; Nguyễn Ngọc Th; Võ Minh D; Tô Đình H; Nguyễn Hoàng V; Trần Thị Trúc L; Phạm Quốc T;

+ Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Thanh T; Huỳnh Mỹ Hồ P; Lê Tấn D; Đặng Văn Quyết C; Lê Tuấn A; Phạm Quốc H; Võ Thị Hoàng D; Võ Văn Phước A; Võ Văn C; Trần Đình Q; Phạm Văn C; Lê D; Nguyễn Thị Thu T; Nguyễn Chiến Đ.

Đều không liên quan đến việc kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo nên Hội đồng xét xử không triệu tập tại phiên tòa phúc thẩm.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 00 giờ 10 phút, ngày 01/5/2018, Công an Quận W phối hợp Công an phường A, Quận W kiểm tra căn hộ số R4-80 PH, Khu phố 3, phường A, Quận W, Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện bắt quả tang Dương Phan T cùng Trương Hoài P, Huỳnh Văn D, Nguyễn Thanh T có hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất nghi là ma túy:

Tại phòng số 01 lầu 01 gồm: Ngô Thành N, Nguyễn Ngọc Th, Trần Thanh T, Tô Đình H, Trần Thị Trúc L, Nguyễn Hoàng V, Võ Minh D có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và sử dụng. Vật chứng thu giữ tại phòng 01 lầu 01 gồm

2,5 viên nén màu hồng và 02 gói nylon chứa chất tinh thể không màu - nghi là chất ma túy.

Tại phòng 06 lầu 04 gồm: Lê Tuấn A, Phạm Quốc T, Đặng Văn Quyết C, Phạm Quốc H, Lê Tấn D có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và sử dụng. Vật chứng thu giữ tại phòng 06 lầu 4 gồm 01 viên nén màu hồng và 01 gói nylon chứa chất tinh thể không màu - nghi là chất ma túy.

Ngoài ra, Công an còn thu giữ 85 viên nén màu xanh trong 05 gói nylon; tinh thể không màu trong 30 gói nylon; 05 viên nén màu xanh trong 01 gói nylon; 03 viên nén hình tròn màu xanh có khắc chữ “LV” trong 01 gói nylon tại tầng lửng căn hộ R4-80 PH, Khu phố 3, phường A, Quận W.

Kết luận giám định số 819/KLGĐ-H ngày 07/5/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh xác định: 01 gói niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Phạm Quốc T và hình dấu Công an phường A, Quận W, bên trong có:

- Tinh thể không màu trong 01 gói nylon (ký hiệu mẫu m1) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,7072g (Không phẩy bảy không bảy hai gam), loại Katemine.

- 01 viên nén hình chữ nhật màu hồng trong 01 gói nylon (ký hiệu mẫu m2) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,4023g (Không phẩy không hai ba gam), loại MDMA.

Kết luận giám định số 820/KLGĐ-H ngày 07/5/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh xác định: 01 gói niêm phong bên ngoài có dấu vân tay ghi tên Ngô Thành N và hình dấu Công an phường A, bên trong có:

- Tinh thể không màu trong 02 gói nylon (ký hiệu mẫu m1) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,3910g (Một phẩy ba chín một không gam), loại Ketamine.

- 02 viên nén tròn màu hồng và mảnh vụn trong 01 gói nylon (ký hiệu mẫu m2) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,7647g (Không phẩy bảy sáu bốn bảy gam), loại MDMA.

Kết luận giám định số 822/KLGĐ-H ngày 07/5/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh xác định: 02 gói được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Dương Phan T và hình dấu Công an phường A, Quận W, bên trong có:

- Gói 1: 85 viên nén màu xanh trong 05 gói nylon (ký hiệu mẫu m1) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 33,5476g (Ba ba phẩy năm bốn bảy sáu gam), loại MDMA.

- Gói 2: Tinh thể không màu trong 30 gói nylon (ký hiệu mẫu m2) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 15,5763g (Một năm phẩy năm bảy sáu ba gam), loại Katemine; 05 viên nén màu xanh trong 01 gói nylon (ký hiệu mẫu m3) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,9635g (Một phẩu chín sáu ba năm gam), loại MDMA; 03 viên nén hình tròn màu xanh có khắc chữ “LV” trong 01 gói nylon (ký hiệu mẫu m4) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,0026g (Một phẩy không không hai sáu gam), loại MDMA.

Bị cáo Dương Phan T khai nhận: Bị cáo thuê căn nhà số R4-80 PH, Khu phố 3, phường A, Quận W của ông Nguyễn Chí T từ tháng 9/2017 với giá tiền thuê là 2.400 USD/tháng. Sau khi thuê đến tháng 11/2017, bị cáo sửa chữa lại các phòng và lắp đặt hệ thống âm thanh, đèn chiếu sáng để cho người nghiện thuê phòng sử dụng trái phép chất ma túy. Giá thuê mỗi phòng từ 2.500.000 đồng 3.000.000 đồng. Bị cáo thuê Trương Hoài P, Huỳnh Văn D, Nguyễn Thanh T làm nhân viên có nhiệm vụ trông giữ xe, đón khách đưa lên phòng thuê, mở đèn, nhạc để khách sử dụng trái phép chất ma túy. Bị cáo trả lương cho nhân viên mỗi người 5.000.000 đồng/tháng. Đến 00 giờ 10 phút, ngày 01/5/2018, bị cáo đang cho khách thuê 02 phòng sử dụng trái phép chất ma túy thì bị bắt Công an Quận W bắt quả tang.

Các bị cáo Trương Hoài P, Huỳnh Văn D và Nguyễn Thanh T khai nhận: Các bị cáo được Dương Phan T thuê vào làm nhân viên có nhiệm vụ, trông giữa xe, đón khách đưa lên phòng để khách sử dụng trái phép chất ma túy với mức lương 5.000.000 đồng/người/tháng. Huỳnh Văn D và Nguyễn Thanh T đã làm cho Dương Phan T được 03 tháng nH mỗi người mới nhận được một tháng lương là 5.000.000 đồng. Trương Hoài P đã làm cho Dương Phan T được 08 ngày nH đến ngày thứ 06 bị cáo mới biết việc Dương Phan T tổ chức cho người nghiện thuê phòng để sử dụng trái phép chất ma túy. Bị cáo Trương Hoài P chưa được trả lương mà mới được khách cho tiền bo 150.000 đồng. Ngày 01/5/2018, Dương Phan T cho khách thuê 02 phòng sử dụng trái phép chất ma túy thì bị bắt quả tang.

Các bị cáo Ngô Thành N, Tô Đình H, Nguyễn Hoàng V, Võ Minh D, Trần Thị Trúc L, Trần Thanh T và Nguyễn Ngọc Th khai nhận: N là người thuê phòng 01 lầu 01 của căn nhà số R4-80 PH, Khu phố 3, phường A, Quận W để cả nhóm gồm N, Th, T, H, L, V và D sử dụng ma túy. Sau khi thuê phòng, H, V, Th, D, T và L mỗi người hùn 500.000 đồng, tổng số tiền là 3.000.000 đồng để mua túy để sử dụng. N có nhiệm vụ liên lạc với Nguyễn Ngọc Th mua ma túy. Khoảng 30 phút sau, T đem ma túy đến, cả nhóm đang sử dụng ma túy thì bị Công an Quận W bắt quả tang.

Bị cáo Phạm Quốc T khai nhận: Khoảng 22 giờ, ngày 30/4/2018, T cùng với Phạm Quốc H và Lê Tấn D (sinh ngày 13/12/2002) đến quán Bar 212 đường TN, Quận S chơi. Tại đây, T bỏ ra 2.000.000 đồng, D bỏ ra 500.000 đồng hùn nhau mua ma túy gồm 01 nylon chứa tinh thể không màu, 02 viên nén hình chữ nhật màu hồng với giá 2.500.000 đồng của người bảo vệ (không rõ nhân thân lai lịch) để sử dụng chung. Sau khi mua được ma túy, T, D và H sử dụng hết 01 viên hình chữ nhật màu hồng. Số còn lại, T, H và D rủ nhau đến căn nhà số R4- 80 PH, Khu phố 3, phường A, Quận W thuê phòng 06 lầu 04 để sử dụng tiếp. Khi đến phòng 06 lầu 04, H rủ thêm Lê Tuấn A đến sử dụng ma túy. Đặng Văn Quyết C khi nghe T nói đang ở phòng 6 lầu 4 căn nhà số R4-80 PH, Khu phố 3, phường A, Quận W sử dụng ma túy thì cùng đến và sử dụng ma túy chung. Cả nhóm đang sử dụng ma túy thì bị bắt quả tang.

Đối với 85 viên nén màu xanh trong 05 gói nylon; tinh thể không màu trong 30 gói nylon; 05 viên nén màu xanh trong 01 gói nylon; 03 viên nén hình tròn màu xanh có khắc chữ “LV” trong 01 gói nylon được Công an Quận W thu giữ tại tầng lửng căn hộ nhà số R4-80 PH, Khu phố 3, phường A, Quận W: Các bị cáo Dương Phan T, Huỳnh Văn D, Nguyễn Thanh T và Trương Hoài P khai nhận không biết số ma túy trên là của ai. Cơ quan Cảnh sát điều tra cũng chưa thu thập được chứng cứ để xác định lượng ma túy này do ai tàng trữ.

Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Thanh T khai nhận hành vi Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy như cáo trạng đã truy tố với vai trò đồng phạm giúp sức cho Dương Phan T với công việc là trông giữ xe, đồng thời xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 170/2018/HSST ngày 30/11/2018 của Tòa án nhân dân Quận W, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

- Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thanh T phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”;

- Về hình phạt: Áp dụng Điểm a, b, c Khoản 2 Điều 255; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thanh T 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/5/2018.

Đối với các bị cáo khác không kháng cáo, không bị kháng nghị thì đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Ngoài ra, Bản án hình sự sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, nghĩa vụ nộp án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 10/12/2018, bị cáo Nguyễn Thanh T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo Nguyễn Thanh T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt vì vai trò của bị cáo chỉ là giúp sức cho bị cáo Dương Phan T với công việc là trông giữ xe và đưa khách đến lễ tân. Trước thời điểm mở phiên tòa phúc thẩm, vợ bị cáo là Võ Trần Phương U nộp Đơn xin xác nhận hoàn cảnh khó khăn có xác nhận của địa phương, với nội dung: Bị cáo Nguyễn Thanh T là lao động chính, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, đồng thời xin giảm án cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa đưa ra ý kiến phát biểu: Sau khi xem xét tất cả lời khai, tình tiết trong hồ sơ vụ án, nhận thấy bản án sơ thẩm đã tuyên là đúng người, đúng tội và mức án phù hợp với tính chất cũng như mức độ của hậu quả đã xảy ra. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm tình tiết nào mới để làm cơ sở xem xét giảm nhẹ hình phạt. Từ đó đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo và y án sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Thanh T không tranh luận với đại diện Viện Kiểm sát và xin giảm nhẹ hình phạt vì bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, bản thân là lao động chính trong gia đình.

Luật sư Lê Nguyễn Quỳnh T bào chữa cho bị cáo T phát biểu: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và y án sơ thẩm là chưa phù hợp, vì tại phiên tòa bị cáo có đơn xác nhận là gia đình có hoàn cảnh khó khăn và bị cáo là lao động chính, tuy nhiên cấp sơ thẩm mới chỉ áp dụng cho bị cáo tình tiết bị cáo phạm tội lần đầu quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 là chưa đầy đủ. Mặt khác, vai trò của bị cáo trong vụ án này chỉ là giúp sức trong vụ án đồng phạm với công việc chủ yếu là trông giữ xe của khách, không trực tiếp tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, cũng như hoàn toàn T không biết việc bị cáo Dương Phan T tổ chức sử dụng chất ma túy trong phần lớn thời gian mà bị cáo làm thuê, bị cáo không biết và cũng không thể xác định được độ tuổi của những người đến chơi, từ đó cần phân hóa vai trò của bị cáo trong vụ án. Ngoài ra, cần xét bị cáo có học vấn thấp nên cũng có phầm hạn chế về nhận thức pháp luật. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 và Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 để chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo và sửa án sơ thẩm theo hướng giảm hình phạt cho bị cáo dưới khung hình phạt mà điều luật đã quy định.

Qua tranh luận và đối đáp, đại diện Viện kiểm sát và luật sư đều giữ nguyên quan điểm đã phát biểu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, T diện chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, luật sư, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Ngày 30/11/2018, Tòa án nhân dân Quận W, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm, đến ngày 10/12/2018, bị cáo Nguyễn Thanh T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Đơn kháng cáo của bị cáo được lập trong trong thời hạn luật định nên hợp lệ.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Quận W đã truy tố và Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân Quận W đã xét xử, từ đó có đủ cơ sở để kết luận: Tại căn nhà số R4-80 PH, Khu phố 3, phường A, Quận W - là căn nhà do bị cáo Dương Thanh T quản lý, các bị cáo Dương Phan T, Huỳnh Văn D, Nguyễn Thanh T và Trương Hoài P đã thực hiện hành vi tổ chức cho Ngô Thành N, Tô Đình H, Võ Minh D, Nguyễn Hoàng V, Trần Thanh T, Nguyễn Ngọc Th, Trần Thị Trúc L và Phạm Quốc T thuê phòng và phục vụ cho các đối tượng này sử dụng trái phép chất ma túy nhằm mục đích thu lợi.

Các bị cáo Ngô Thành N, Tô Đình H, Võ Minh D, Nguyễn Hoàng V, Trần Thanh T, Nguyễn Ngọc Th, Trần Thị Trúc L tàng trữ tại phòng số 01 lầu 01 khối lượng 1,3910g (Một phẩy ba chín một không gam), loại Katemine và 0,7647g (Không phẩy bảy sáu bốn bảy gam), loại MDMA nhằm mục đích sử dụng chung; bị cáo Phạm Quốc T tàng trữ tại phòng 06 lầu 04 khối lượng 0,7072g (Không phẩy bảy không bảy hai gam), loại Ketamine và 0,4023g (Không phẩy bốn không hai ba gam), loại MDMA nhằm mục đích sử dụng chung với em Lê Tấn D sinh ngày 13/12/2002, ông Phạm Quốc H, ông Đặng Văn Quyết C, ông Lê Tuấn A.

Do đó, hành vi của bị cáo Nguyễn Thanh T đã phạm vào tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, thuộc các trường hợp định khung hình phạt “Phạm tội 02 lần trở lên”; “Phạm tội đối với 02 người trở lên” và “Phạm tội đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi” quy định tại các điểm a, b, c khoản 2 Điều 255 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017, nên Tòa án nhân dân Quận W xét xử bị cáo về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo các điểm a, b, c khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

 [3] Về việc áp dụng hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Thanh T:

Trong vụ án này, bị cáo có vai trò giúp sức cho bị cáo Dương Phan T, thực hiện hành vi theo sự chỉ đạo của Dương Phan T, bị cáo nhận thức rõ sử dụng ma túy là một tệ nạn của xã hội, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe cũng như tính mạng của người sử dụng, tạo tiền đề phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác nhưng vẫn cố ý phạm tội, do đó cần có mức hình phạt nghiêm khắc đối với các bị cáo mới có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo là: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, theo quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015; bị cáo mới phạm tội lần đầu (Tòa sơ thẩm áp dụng cho bị cáo Nguyễn Thanh T vì bị cáo đã được xóa án tích) theo quy định tại khoản 2 điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo cung cấp tình tiết mới là gia đình có hoàn cảnh khó khăn, bản thân là lao động chính có xác nhận của cấp có thẩm quyền và bị cáo trình độ học vấn thấp dẫn đến hạn chế về nhận thức để chứng minh cho yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt, nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Do đó, sau khi xét đến tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy mức án 07 (bảy) năm tù mà cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là quá nghiêm khắc vì bị cáo chỉ là đồng phạm với vai trò giúp sức làm công việc chính là trông giữ xe của khách hàng và không trực tiếp tham gia vào công việc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy như các đồng phạm khác, nên cần thiết phải áp dụng thêm Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng, đồng thời sửa bản án sơ thẩm.

[4] Lập luận trên đây cũng là căn cứ để không chấp nhận quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa về việc y án sơ thẩm, đồng thời chấp nhận một phần lời bào chữa của luật sư về đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo không phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

 [6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thanh T và sửa bản án sơ thẩm số 170/2018/HSST ngày 30/11/2018 của Tòa án nhân dân Quận W, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh T phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

3. Áp dụng các điểm a, b, c khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt: Nguyễn Thanh T 05 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01/5/2018.

4. Áp dụng Điều 98, 99 Bộ luật tố tụng hình sự và áp dụng Điều 22 và 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quyết định về mức thu, miễn giám, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, cùng danh mục án phí, lệ phí toà án;

Bị cáo Nguyễn Thanh T không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

603
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 122/2019/HS-PT ngày 27/02/2019 về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy

Số hiệu:122/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về