TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRÀ ÔN, TỈNH VĨNH LONG
BẢN ÁN 122/2019/HNGĐ-ST NGÀY 10/12/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON
Ngày 10 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 402/2019/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 10 năm 2019, về việc “Tranh chấp ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 117/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Bích C, sinh năm 1997 (Có mặt).
Địa chỉ ấp T, xã T1, huyện T2, tỉnh Vĩnh Long.
- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn P, sinh năm 1987 (Vắng mặt).
Địa chỉ ấp T, xã T1, huyện T2, tỉnh Vĩnh Long.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn xin ly hôn, bản tự khai cùng ngày 15/10/2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Nguyễn Thị Bích C trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn P thành hôn vào năm 2017 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã T1, huyện T2, tỉnh Vĩnh Long ngày 18/01/2017. Thời gian vợ chồng chung sống được gần 03 năm lúc đầu có hạnh phúc, sau thường phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm, anh P không quan tâm lo lắng cho vợ con, thường xuyên ăn chơi nhậu nhẹt nên vợ chồng đã cắt đứt quan hệ từ tháng 8/2019 đến nay. Chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục chung sống, chị yêu cầu được ly hôn với anh P. Về con chung, vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Quang K, sinh ngày 13/11/2017 hiện đang sống chung với chị. Chị yêu cầu được nuôi tiếp tục nuôi con, yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đ. Về tài sản chung, nợ chung không yêu cầu giải quyết.
Sau khi thụ lý vụ án Toà án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho bị đơn anh Nguyễn Văn P, đồng thời triệu tập các đương sự đến tham gia phiên hoà giải nhiều lần nhưng phía anh P không trình bày ý kiến bằng văn bản gởi cho Toà án. Toà án quyết định đưa vụ án ra xét xử và triệu tập các đương sự đến tham gia phiên toà nhưng anh P vẫn vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn Nguyễn Văn P tại phiên toà hôm nay.
Tại biên bản xác minh ngày 11/11/2019 ông Nguyễn Văn K1 (Cha ruột anh P) trình bày: Năm 2016 P và C thành hôn, sau khi thành hôn P đi làm ở Cần Thơ, C ở nhà với ông nhưng thường xuyên về nhà mẹ ruột ở đến chiều tối P về C mới về. Sau đó C về nhà mẹ ruột ở vài tháng, P đã nhiều lần rước về nhưng đến nay C tiếp tục bỏ đi và xin ly hôn. Ông không mong muốn vợ chồng P đoàn tụ vì C không biết tôn trọng ông. Về con chung của C và P là cháu Nguyễn Quang K hiện đang sống chung với C. C chăm sóc như thế nào ông không biết vì từ khi chị C đưa con đi đến nay, ông không có tới lui.
Tại phiên Tòa:
Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Bích C giữ nguyên ý kiến đã trình bày.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trà Ôn phát biểu:
- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa: Thẩm phán được phân công thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện cơ bản đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.
- Việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn, đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật. Riêng bị đơn không gởi văn bản trình bày ý kiến, không tham gia các phiên hòa giải, phiên họp công khai chứng cứ và phiên tòa là vi phạm quy định tại các điều 70,72 của Bộ luật tố tụng dân sự
- Về hướng giải quyết vụ án:
Đề nghị áp dụng các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 5,6 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. - Về quan hệ hôn nhân: chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Bích C. Xử cho chị Nguyễn Thị Bích C được ly hôn với anh Nguyễn Văn P.
- Về con chung: Giao cháu Nguyễn Quang K, sinh ngày 13/11/2017 cho chị Nguyễn Thị Bích C tiếp tục nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Văn P có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 750.000đ đến khi cháu Khải đủ 18 tuổi và anh P có quyền nghĩa vụ thăm nôm chăm sóc giáo dục con chung, không ai được cản trở.
- Về án phí dân sự sơ thẩm: chị Nguyễn Thị Bích C có nghĩa vụ nộp 300.000đ án phí ly hôn, anh Nguyễn Văn P có nghĩa vụ nộp 300.000đ án phí cấp dưỡng nuôi con.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về sự có mặt của đương sự: Bị đơn anh Nguyễn Văn P đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn.
[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Bích C và anh Nguyễn Văn P thành hôn năm 2017, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã T1, huyện T2, tỉnh Vĩnh Long ngày 18/01/2017 nên xem đây là hôn nhân hợp pháp, phù hợp theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình.
[3] Quá trình chung sống chị Nguyễn Thị Bích C trình bày vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẩn do anh P không quan tâm chăm sóc vợ con. Hội đồng xét xử nhận thấy: Chị C và anh P thành hôn nhưng vợ chồng không sống gần nhau, anh P đi làm ở Cần Thơ, chị C ở nhà với gia đình anh P nên vợ chồng xảy ra mâu thuẫn. Khi vợ chồng chị C, anh P phát sinh mâu thuẫn, gia đình hai bên không hòa giải giúp đỡ đoàn tụ mà ngày càng phát sinh thêm mâu thuẫn của hai bên gia đình. Bản thân ông Nguyễn Văn K1 (Cha ruột anh P) không mong muốn vợ chồng anh P đoàn tụ. Mặc khác, sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã triệu tập đương sự đến tham gia phiên hòa giải nhiều lần nhằm giúp đỡ chị C, anh P đoàn tụ nhưng anh P không tham gia các phiên hòa giải. Chứng tỏ, anh P không mong muốn vợ chồng đoàn tụ và thống nhất yêu cầu khởi kiện của chị C. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy: mâu thuẫn vợ chồng giữa chị C, anh P lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Bich C là phù hợp theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
[4] Về con chung: Giữa chị Nguyễn Thị Bích C và anh Nguyễn Văn P có 01 con chung là Nguyễn Quang K, sinh ngày 13/11/2017 hiện đang sống chung với chị C. Hội đồng xét xử nhận thấy: Cháu K từ nhỏ đến nay do chị C trực tiếp chăm sóc. Chị C yêu cầu được tiếp tục nuôi con và anh P đã nhận được các tài liệu chứng cứ do chị C cung cấp cho Tòa án nhưng không có ý kiến gì về việc chăm sóc nuôi dưỡng con. Chứng tỏ, anh P thống nhất ý kiến của chị C. Để đảm bảo cho việc phát triển bình thường, ổn định cuộc sống của cháu K, Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cháu Nguyễn Quang K, sinh ngày 13/11/2017 cho chị Nguyễn Thị Bích C tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc là phù hợp theo quy định tại Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình.
[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Việc cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con theo quy định tại Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình. Chị C là người đang trực tiếp nuôi con, chị C yêu cầu anh P có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi mỗi tháng 2.000.000đ. Chị C trình bày anh P đang có công việc và thu nhập ổn định nhưng chị C không cung cấp được chứng cứ chứng minh nguồn thu nhập của anh P. Tòa án có ra thông báo yêu cầu chị C cung cấp chứng cứ chứng minh nguồn thu thập của anh P và Hội đồng xét xử cho chị C thời gian để cung cấp chứng cứ nhưng chị C không đồng ý và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ theo quy định của pháp luật để buộc anh P có nghĩa vụ cấp dưỡng. Hội đồng xét xử xét thấy: việc chị C yêu cầu cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đ là cao so với khả năng thực tế của anh P. Do đó, Hội đồng xét xử cần điều chỉnh mức cấp dưỡng phù hợp nhu cầu thiết yếu của cháu K tương đương ½ mức lương tối thiểu tại thời điểm xét xử (1.490.000đ/tháng) số tiền 750.000đ/tháng. Buộc anh Nguyễn Văn P có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Nguyễn Quang K mỗi tháng 750.000đ (Bảy trăm năm mươi nghìn đồng) đến khi cháu K đủ 18 tuổi, thời gian cấp dưỡng tính từ ngày 10/12/2019 là phù hợp theo quy định tại điều 110 và 116 của Luật hôn nhân và gia đình.
[6] Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Bích C không yêu cầu giải quyết nên miễn xét.
[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Bích C có nghĩa vụ nộp số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn. Bị đơn anh Nguyễn Văn P có nghĩa vụ nộp số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định tại khoản 5,6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[8] Từ những phân tích trên Hội đồng xét xử xét thấy ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát có căn cứ chấp nhận toàn bộ.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 4, Điều 147, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; Áp dụng các điều 56, 58, 81, 82, 83, 110,116 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 5,6 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thị Bích C.
2. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị Bích C ly hôn với anh Nguyễn Văn P.
3. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Quang K, sinh ngày 13/11/2017 cho chị Nguyễn Thị Bích C tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc. Anh Nguyễn Văn P có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 750.000đ (Bảy trăm năm mươi nghìn đồng) đến khi cháu K đủ 18 tuổi, thời gian cấp dưỡng tính từ ngày tuyên án (ngày 10/12/2019). Anh P có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc nguyên đơn chị Nguyễn Thị Bích C nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0015701 ngày 15/10/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trà Ôn, chị C đã nộp đủ.
Buộc anh Nguyễn Văn P có nghĩa vụ nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con.
5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
6. Nguyên đơn được quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể ngày tuyên án, riêng bị đơn vắng mặt tại phiên tòa nên được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án 122/2019/HNGĐ-ST ngày 10/12/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con
Số hiệu: | 122/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Trà Ôn - Vĩnh Long |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 10/12/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về