Bản án 12/2021/HSST ngày 12/05/2021 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 12/2021/HSST NGÀY 12/05/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12/5/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 12/2021/TLST- HS ngày 16/4/2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2021/QĐXXST-HS ngày 19/4/2021 đối với bị cáo.

Lừ Văn Q, sinh 03/3/1985 tại huyện Bắc Yên; nơi cư trú: Bản Tà Đò, xã Tạ Khoa, huyện B, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: thái; tôn giáo: không; đảng phái đoàn thể: không. Trình độ văn hóa: 8/12. Con ông Lừ Văn Th (đã chết), con bà Lò Thị N; bị cáo có vợ Lò Thị T và có 01 con. Tiền án: không, Nhân thân: Ngày 21/11/2016 và ngày 06/10/2020 bị UBND xã Tạ Khoa áp dụng biện pháp giáo dục tại xã về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/02/2021 cho đến ngày xét xử (có mặt tại phiên tòa).

- Người bị hại: anh Đinh Văn Q1, sinh năm 1995; trú tại: Bản Tà Đò, xã Tạ Khoa, huyện B, tỉnh Sơn La (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo Lừ Văn Q là ông Lường Duy Tuyên, trợ giúp viên, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Sơn La (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ ngày 07/01/2021 Lừ Văn Q một mình đi bộ ra bản chơi, nhìn thấy nhà anh Đinh Văn Q1 tắt điện, dưới sàn nhà có dựng 02 chiếc xe máy, quan sát không thấy người qua lại nên Q đi vào chỗ xe BKS 26E1- 059.85 dùng chìa khóa mang theo cắm vào ổ khóa thấy mở được nên dắt xe đi khoảng 50m rồi nổ máy điều khiển xe về nhà mặc thêm áo, sau đó điều khiển xe đi đến đèo Chẹn, xã Hua Nhàn, huyện B vào lán nương cạnh đường ngủ qua đêm, đến sáng ngày 08/01/2021 Q điều khiển xe lên khu vực ngã ba Cò Nòi, huyện Mại Sơn dừng lại mở xem cốp xe thấy 01 chiếc ví màu đen bên trong đựng 01 gấy đăng ký xe máy BKS 26E1-05985, 01 gấy phép lái xe, 01 giấy CMTND đều mang tên Đinh Văn Q1, rồi điều khiển xe đến tiểu khu 263 xã Cò Nòi vào quán chị Vũ Linh C bán giá 7.000.000đ đem về tiêu sài cá nhân Vật chứng thu giữ của: Lừ Văn Q: 01 chiếc ĐTDĐ, 01 CMTND; của Đinh Văn Q1: 01 chiếc xe máy BKS 26E1-05985, 01 giấy đăng ký xe máy, 01 gấy phép lái xe, 01 giấy CMTND đều mang tên Đinh Văn Q1, Ngày 08/02/2021 cơ quan điều tra Công an huyện B yêu cầu định giá tài sản.Tại bản kết luận định giá số 116/KL-HĐĐG ngày 08/02/2021 của hội đồng định giá tài sản huyện Bắc Yên kết luận: 01 chiếc xe máy BKS 26E1- 05985 nhãn hiệu Wave- Hon đa, màu đen bạc có giá 10.500.000đ Ngày 14/4/2021 VKSND huyện B, tỉnh Sơn La có bản cáo trạng số: 05/CT- VKS-BY truy tố Lừ Văn Q về tội trộm cắp tài sản, quy định theo khoản 1 Điều 173 BLHS. Tại phiên tòa Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tòa vẫn giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị HĐXX:

+ Hình phạt: áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo từ 9-15 tháng tù, tính từ ngày bị bắt + Vật chứng: áp dụng khoản 2 Điều 47, khoản 1 Điều 48 BLHS:

- Chấp nhận cơ quan điều tra đã trả lại tài sản cho người bị hại anh Đinh Văn Q1: 01 chiếc xe máy BKS 26E1-05985, 01 giấy đăng ký xe máy, 01 gấy phép lái xe, 01 giấy CMTND đều mang tên Đinh Văn Q1, - Trả lại cho bị cáo Lừ Văn Q: 01 chiếc ĐTDĐ, 01 CMTND;

+ Trách nhiệm dân sự: áp dụng khoản 1 các Điều 584, 585, 586 BLDS Buộc bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại tài sản cho gia đình người bị hại số tiền 9.200.000đ + Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

+ Về án phí hình sự: áp dụng khoản 1 điểm đ Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, nộp, miễn, giảm án phí, lệ phí tòa án. Miễn nộp án phí HSST, DSST cho bị cáo Lừ Văn Q.

- Người bị hại là anh Đinh Văn Q1, đã nhận lại tài sản, yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 9.200.000đ (tiền chuộc lại xe máy).

-Bị cáo xin hội đồng xét xử giảm nhẹ mức hình phạt tù.

- Người bào chữa cho bị cáo Lừ Văn Q đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 173 về tội trộm cắp tài sản, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, người phạm tội tích cực giúp đỡ cơ quan trong quá trình giải quyết vụ án quy định tại điểm i, s, t khoản 1 Điều 52 BLHS đề nghị xử phạt từ 6-9 tháng tù.

Đối với chị Vũ Linh C, người trực tiếp mua bán xe với bị cáo Lừ Văn Q ngày 07/01/2020, chị C không biết tài sản do Q trộm cắp mà có, thuộc trường hợp mua bán ngay tình, do vậy cơ quan điều tra công an huyện Bắc Yên không có căn cứ xử lý. Riêng 01 chiếc chìa khóa xe và số tiền bị cáo đã chi tiêu, số còn lại bị cáo khai đã làm rơi cơ quan điều tra đã thông báo tìm kiếm, nhưng không có kết quả.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án và căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[-] Về hành vi quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, điều tra viên. Viện kiểm sát nhân dân và kiểm sát viên tham gia trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục tố tụng được quy định trong BLTTHS và bị cáo không có ý kiến gì khiếu nại về quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng, do đó HĐXX khẳng định các quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[-] Tại phiên tòa bị cáo khai nhận do không có tiền tiêu xài nên đã nảy ý định phạm tội, một mình trộm cắp tài sản là 01 chiếc xe máy, hành vi phạm tội đã hoàn thành, VKSND huyện Bắc Yên truy tố bị cáo về tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 BLHS là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tại khoản 1 Điều 173 BLHS quy định: "Người nào trộm cắp tài sản của người khác giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000đồng hoặc dưới 2.000.000đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm’’.

Ngoài ra tại khoản 5 Điều 173 BLHS còn quy định: "Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, ..tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản".

[-] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội trộm cắp tài sản của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của chủ có tài sản, một mình lén lút thực hiện, đã bất chấp pháp luật và phải chịu trách nhiệm hình sự.

[-] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có.

[-] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo thấy rằng: bị cáo không có tiền án, khi phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, được quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 BLHS, cần xem xét áp dụng cho bị cáo phần nào để được hưởng sự khoan hồng của pháp luật. Tuy nhiên bị cáo có nhân thân xấu, khi bị bắt qua xét nghiệm bằng que thử nhanh kết quả là dương tính với ma túy, trước đó vào các ngày 21/11/2016 và ngày 06/10/2020 bị UBND xã Tạ Khoa áp dụng biện pháp giáo dục tại xã về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, quá trình giáo dục bị cáo không tiến bộ, không từ bỏ con đường nghiện ma túy,thích ăn chơi, lười lao động, cần áp dụng một mức hình phạt thật nghiêm khắc do đó HĐXX thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội, trong một khoảng thời gian nhất định đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo sớm trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội sau này * Về vật chứng vụ án: Cần chấp nhận cơ quan điều tra đã trả lại tài sản cho người bị hại và trả lại tài sản cho bị cáo theo đề nghị của đại diện VKSND nêu trên.

* Về trách nhiệm bồi thường dân sự: do bị cáo trộm cắp tài sản là 01 chiếc xe máy BKS 26E1-05985 đem đi bán cho chị Vũ Linh C, trú tại Còi nòi, Mai Sơn với giá 7.000.000đ về tiêu sài, khi bị hại biết được thông tin từ bị cáo nói chiếc xe trên đã bán cho chị C, việc mua bán chiếc xe trên của chị C là ngay tình, không biết tài sản do trộm cắp, nên khi bị hại lên chuộc lại với giá do hai bên thỏa thuận là 9.200.000đ, đây được coi là số tài sản (tiền) bị thiệt hại do phát sinh từ việc đi chuộc lại xe, do đó xét thấy cần buộc bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường cho gia đình người bị hại là đúng quy định của pháp luật.

* Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản gì nên không áp dụng.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên, kiểm sát xét xử và người bào chữa cho bị cáo đề nghị HĐXX áp dụng các điểm khoản nêu trên để xử phạt, về án phí và xử lý vật chứng vụ án theo quy định. Xét ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ pháp luật. Riêng người bào chữa đề nghị thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm t khoản 1 Điều 51 BLHS HĐXX không có căn cứ chấp nhận.

* Về án phí hình sự sơ thẩm: Tuy bị cáo không phải hộ nghèo, nhưng bị cáo sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn theo quy định của chính phủ, do đó cần miễn toàn bộ án phí cho bị cáo theo quy định chung của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự tuyên bố bị cáo Lừ Văn Q phạm tội trộm cắp tài sản. Xử phạt bị cáo Lừ Văn Q 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 09/02/2021 .

2. Về vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 47, khoản 1 Điều 48 BLHS:

- Chấp nhận cơ quan điều tra đã trả lại tài sản cho người bị hại gồm: 01 chiếc xe máy BKS 26E1-05985, 01 giấy đăng ký xe máy, 01 gấy phép lái xe, 01 giấy CMTND đều mang tên Đinh Văn Q1, - Trả lại tài sản gồm: 01 chiếc ĐTDĐ hiệu NôKIA 1280-V0651 màu vàng đen có chữ và số: Lmei 353300/05/310981/2 bên trong có 01 sim số sri 898404800073548030 và 01 CMTND số 051065381 cho bị cáo Lừ Văn Q.

3. Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Căn cứ khoản 1 các Điều 584, 585, 586 Bộ luật dân sự. Buộc bị cáo Lừ Văn Q phải có trách nhiệm bồi thường cho gia đình người bị hại anh Đinh Văn Q1 với tổng số tiền 9.200.000đồng (chín triệu, hai trăm nghìn đồng).

4. Hình phạt bổ sung: không áp dụng đối với bị cáo.

5. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 1 điểm đ Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, nộp, miễn, giảm án phí, lệ phí tòa án. Miễn nộp toàn bộ án phí HSST, DSST cho bị cáo Lừ Văn Q.

6. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

262
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2021/HSST ngày 12/05/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:12/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Yên - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về