Bản án 12/2021/HS-PT ngày 18/01/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 12/2021/HS-PT NGÀY 18/01/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 519/2020/TLPT-HS ngày 13 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Vũ Thu T cùng đồng phạm bị xét xử sơ thẩm về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 180/2020/HS-ST ngày 30/05/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

* Bị cáo có kháng cáo:

1. Nguyễn Vũ Thu T, sinh năm: 1978 tại Nam Định; Nơi ĐKNKTT: Tổ 36, phường Đ, quận M, thành phố Hà Nội; Nơi cư trú: số 2 Q20 ngõ 134 đường Nguyễn A, phường Tương M, quận M, thành phố Hà Nội; Trình độ văn hóa:

12/12; Nghề Nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông: Nguyễn Tuấn D và con bà: Đặng Thị C; Chồng: Nguyễn Mạnh H; Có 02 con, lớn sinh năm 2006, nhỏ sinh năm 2012. Tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt tạm giam ngày 19/7/2018; có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo T: Luật sư Phạm Gia Linh - Văn phòng luật sư Hội Tụ Trí Tuệ thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; có mặt.

2. Phạm Huy S, sinh năm 1983 tại Nghệ An; Nơi ĐKNKTT: Tổ 29 Đại K, quận M, thành phố Hà Nội; Nơi cư trú: Phòng 325 tập thể Đại học L, tổ 9 phường D, quận C, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch:

Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Văn hóa: 12/12; Con ông: Phạm Huy H và con bà: Phùng Thị K; Vợ: Hà Thị Kim D; Có 01 con sinh năm 2009; Tiền án, tiền sự: 01 tiền án: Ngày 23/9/2014, Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội xử phạt 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, hạn thử thách là 60 tháng về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản; Hiện chưa được xóa án tích. Bị bắt tạm giam ngày 09/5/2019; có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo S: Luật sư Nguyễn An B - Văn phòng luật sư Nguyễn An B và cộng sự thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; có mặt.

* Người bị hại có kháng cáo:

Bà Dương Thị Hồng H, sinh năm 1964; Trú tại: Số 175 Hoàng Hoa T, thị trấn C, huyện Y, tỉnh B; vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

* Người bị hại liên quan đến kháng cáo:

Bà Dương Thị Thu A, sinh năm 1971 và ông Phan Ngọc V, sinh năm 1969; trú tại: Thôn Đồng Q, xã Đào M, huyện Lạng G, tỉnh B; bà A và ông V vắng mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có những người bị hại khác, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo, không bị kháng nghị, Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2017, Nguyễn Vũ Thu T làm nghề lao động tự do, mặc dù không có chức năng, nhiệm vụ, không có khả năng xin việc làm, xin học học tại các trường trong ngành Công an; biên chế nhiều đơn vị nhà nước khác nhau và xin các dự án đầu tư, xin sổ đỏ, cấp giấy tờ đất đai nhưng T nại ra có quen biết với các lãnh đạo cấp cao và đã đưa ra thông tin gian đối có khả năng xin được đi học, việc làm, đầu tư dự án trên địa bàn thành phố Hà Nội và các tỉnh thành khác. Tin tưởng thông tin T đưa ra là có thật nên nhiều người đã đưa tiền cho T nhờ xin học, xin việc làm và đầu tư các dự án. Sau khi nhận tiền T không làm gì để thực hiện như đã hứa hẹn mà chiếm đoạt tiền của các bị hại.

Ngoài ra, mặc dù không có chức năng, nhiệm vụ, không có khả năng xin học tại các trường ngành Công an, xin việc làm tại các Bệnh viện của Bộ Công an nhưng Phạm Huy S vẫn giới thiệu có quan hệ với nhiều lãnh đạo khi công tác tại Tổng cục 4 - Bộ Công an nên có khả năng xin việc làm, xin học tại các trường ngành Công an, Bệnh viện của Bộ Công an, nếu T biết ai có nhu cầu thì cùng S xin cho họ đi học và đi làm. Cụ thể như sau:

I - Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền của Nguyễn Vũ Thu T:

1. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền của bà Trần Thị Q, sinh năm 1983; địa chỉ: Số 19 ngõ 195 đường L, phường Liên M, quận B, thành phố Hà Nội:

Khoảng tháng 4/2015, thông qua mối quan hệ xã hội, bà Q quen biết T và được T giới thiệu có quan hệ với các lãnh đạo cấp cao, có thể xin cho Công ty CP xây dựng và thương mại V (là công ty của chồng bà Q) thực hiện các dự án xây dựng trụ sở Cục thuế các tỉnh Cao Bằng, Lào Cai, Điện Biên. Tin là thật, bà Q nhờ T xin cho Công ty V được trúng thầu xây dựng các dự án này, T đồng ý và nói chi phí là 700.000.000 đồng. Ngày 11/4/2015 và ngày 26/5/2015, tại nhà T ở số 2 Q20 ngõ 134 Nguyễn A, phường T, quận M, thành phố Hà Nội, bà Q đưa cho T 02 lần với tổng số tiền 700.000.000 đồng và T viết Giấy biên nhận tiền cho bà Q. Sau đó, T không làm bất kỳ thủ tục gì cho Công ty V tham gia đấu thầu và chiếm đoạt toàn bộ số tiền bà Q đã đưa. Bà Q có đơn đề nghị xử lý Nguyễn Vũ Thu T theo quy định pháp luật và yêu cầu T phải trả lại số tiền 700.000.000 đồng đã chiếm đoạt.

- Cơ quan điều tra tiến hành xác minh tại Tổng cục thuế - Bộ Tài chính, UBND các tỉnh Lào Cai, Điện Biên, Cao Bằng, kết quả xác định: Quá trình mở bán hồ sơ thầu của các dự án trên không có Công ty V tham gia mua hồ sơ dự thầu và không tham gia đấu thầu.

2. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền của bà Đinh Thị Hồng Đ, sinh năm 1974, nơi cư trú: Phố 11 phường Đông T, thành phố N, tỉnh N:

Khoảng năm 2015, thông qua mối quan hệ xã hội, bà Đinh Thị Hồng Đ quen biết T và được T giới thiệu là trước đây làm việc tại Bộ Giáo dục và đào tạo hay tiếp xúc với các lãnh đạo Văn phòng Chính phủ nên có nhiều mối quan hệ quen biết. Tin là thật bà Đ nhờ T xin chuyển công tác từ Thanh tra tỉnh Ninh Bình lên Vụ 1 hoặc Vụ 2 Thanh tra Chính phủ. T đồng ý và hứa sẽ xin được việc trước tết âm lịch năm 2016, chi phí là 35.000 USD. Ngày 10/10/2015 và ngày 14/10/2015 tại nhà riêng của T (Số 2 Q20 ngõ 134 Nguyễn A, Tương M, M, Hà Nội), bà Đ đã đưa cho T tổng số tiền 600.000.000 đồng và T viết giấy nhận tiền đưa cho bà Đ. Sau khi nhận tiền, T không thực hiện như hứa hẹn, bà Đ đòi lại tiền thì T trả lại cho bà Đ 100.000.000 đồng, số tiền còn lại, T đã chiếm đoạt và chi tiêu cá nhân hết. Bà Đ yêu cầu T trả lại số tiền 500.000.000 đồng đã chiếm đoạt.

- Xác minh tại Thanh tra Chính phủ: Vụ tổ chức - Thanh tra Chính phủ không tiếp nhận hồ sơ cán bộ cũng như không làm việc với bà Nguyễn Vũ Thu T liên quan đến hồ sơ của bà Đinh Thị Hồng Đ xin thuyên chuyển công tác về Vụ 1, Vụ 2 Thanh tra Chính phủ.

3. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền của ông Phạm Thế S, sinh năm 1957; địa chỉ: số 20LK7 KĐT V, phường P, Hà Đ, thành phố Hà Nội:

Năm 2016, thông qua người quen, ông Phạm Thế S quen biết T và được T giới thiệu có người nhà làm lãnh đạo cấp cao nên có nhiều quan hệ xin được vào ngành công an, công chức các cơ quan, đơn vị. Tin là thật, ông S nhờ T xin cho con gái là chị Phạm Thị Lan A vào làm việc tại bộ phận tài chính Tổng cục 4 (hiện đã giải thể), Bộ Công an. T đồng ý và hứa hẹn chị Lan A sẽ đi làm trong quý 3/2016, chi phí là 700.000.000 đồng. Ngày 01/3/2016, tại nhà riêng của T, ông S đã đưa cho T 700.000.000 đồng và T viết giấy biên nhận tiền cho ông S. Sau khi nhận tiền, T không thực hiện như hứa hẹn. Ông S đòi lại tiền thì T trả lại cho ông S 240.000.000 đồng, số tiền còn lại, T đã chiếm đoạt và chi tiêu cá nhân hết. Ông S yêu cầu T trả lại số tiền 460.000.000 đồng đã chiếm đoạt.

4. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền của ông Bùi Thế Q, sinh năm 1967, địa chỉ: số 17 ngõ 5 tổ 2 phường Phú Lương, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội:

Khoảng năm 2016, thông qua mối quan hệ xã hội, ông Bùi Thế Q quen biết T và được T giới thiệu có người nhà làm lãnh đạo cấp cao nên có nhiều quan hệ, có thể xin được vào ngành công an, biên chế vào các cơ quan nhà nước và xin được nhiều dự án đầu tư. Tin là thật, ông Q nhờ T xin cho con trai là anh Bùi Thế T vào biên chế ngành Công an, T đồng ý và hứa hẹn trong quý 2/2016 anh Tùng sẽ đi làm, chi phí là 700.000.000 đồng. Ngày 21/4/2016, tại nhà T, ông Q đã đưa cho T 700.000.000 đồng và T viết giấy nhận tiền. Sau khi nhận tiền, T không thực hiện như hứa hẹn, đã chiếm đoạt và chi tiêu cá nhân hết. Ông Q yêu cầu T trả lại số tiền 700.000.000 đồng đã chiếm đoạt.

5. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền của ông Phạm Văn B, sinh năm 1961, địa chỉ: phường Quang Trung, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội:

Khoảng năm 2016, thông qua bạn bè ông Phạm Văn B quen biết T và được T giới thiệu quen biết với nhiều lãnh đạo cấp cao và đã xin được nhiều trường hợp vào biên chế làm việc tại các Bệnh viện. Tin là thật, ông B nhờ T xin cho con gái là chị Phạm Thị Minh M (sinh năm 1994; nơi cư trú: số 131 Hữu H, phường Tây M, N, Hà Nội) vào làm việc tại Bệnh viện phụ sản Hà Nội, T đồng ý và hứa hẹn chị M sẽ đi làm trước tháng 11/2016, chi phí là 450.000.000 đồng. Ngày 03/8/2016, tại nhà T, ông B đưa cho T 450.000.000 đồng. Sau đó, T tiếp tục đề nghị ông B chuyển thêm tiền để hoàn thiện thủ tục hồ sơ xin việc cho chị M. Vợ ông B là bà Nguyễn Thị C đã chuyển số tiền 200.000.000 đồng cho T vào tài khoản mang tên Đỗ Mạnh K mở tại ngân hàng VPBank - PGD Linh Đàm, số tài khoản: 122091333 (T sử dụng thẻ tín dụng này). Sau khi nhận tiền, T không thực hiện như đã hứa hẹn, ông B đòi lại tiền thì T trả lại cho ông B 150.000.000 đồng, số tiền còn lại T chiếm đoạt vả chi tiêu cá nhân hết. Ông B yêu cầu T trả lại số tiền 500.000.000 đồng đã chiếm đoạt.

Tại Cơ quan điều tra, T khai sau khi nhận tiền của ông B 650.000.000 đồng, T đã đưa cho đối tượng tên O (tòa nhà E2 Ecopark, xã Xuân Quan, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên) 400.000.000 đồng để nhờ xin việc cho con ông B nhưng không có giấy tờ biên nhận, không có ai là người chứng kiến. Tháng 8/2016, T nhận của ông Phan Huy H số tiền 330.000.000 đồng để cam kết xin việc cho cháu ông H là chị Bùi Thị L vào làm việc tại trường tiểu học công lập quận Hà Đông, TP Hà Nội. T đưa cho O 100.000.000 đồng nhưng không có giấy tờ biên nhận, không có ai là người chứng kiến.

- Xác minh tại Công an xã Xuân Quan, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên và Ban quản lý tòa nhà E2 Ecopark được biết: Tại tòa nhà E2 Ecopark, không có ai tên là O sinh sống và đăng ký tạm trú tại địa chỉ này.

- Xác minh tại Bệnh viện phụ sản Hà Nội: từ năm 2016 đến nay, Bệnh viện phụ sản Hà nội không tiếp nhận hồ sơ xét tuyển hay tuyển dụng cán bộ nào có tên là Phạm Thị Minh M có thông tin cá nhân nêu trên.

Ngoài lời khai của T không có tài liệu gì khác để chứng minh việc T đưa tiền cho O, như vậy, đủ căn cứ kết luận T có hành vi lừa đảo chiếm đoạt số tiền 650.000.000 đồng của ông B.

6. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền của ông Phan Huy H, sinh năm 1972;

địa chỉ: số 28 ngõ 9 tổ 1 phường Phú L, quận H, thành phố Hà Nội:

Năm 2016, qua bạn bè giới thiệu, ông Phan Huy H quen biết T và được T giới thiệu có người nhà làm lãnh đạo cấp cao và đã xin được cho nhiều trường hợp vào ngành công an, biên chế công chức nhiều ngành khác. Tin là thật, ông H nhờ T xin cho cháu là chị Bùi Thị L vào biên chế tại một trường tiểu học công lập thuộc quận Hà Đông, thành phố Hà Nội, T đồng ý và cam kết trong vòng 01 tháng kể từ ngày nhận tiền chị L sẽ được đi làm, chi phí là 20.000 USD. Ngày 30/8/2016 tại nhà T, ông H tự ứng tiền đưa cho T 330.000.000 đồng và T viết giấy nhận tiền cho ông H. Sau khi nhận tiền, T không xin việc như đã hứa hẹn, ông H đòi lại tiền thì T trả lại cho ông H 100.000.000 đồng, số tiền còn lại T chiếm đoạt và chi tiêu cá nhân hết. Ông H yêu cầu T trả lại số tiền 230.000.000 đồng đã chiếm đoạt.

Tại Cơ quan điều tra, T khai sau khi nhận tiền của ông H 330.000.000 đồng, T đã đưa cho đối tượng tên O (tòa nhà E2 Ecopark, xã Xuân Quan, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên) 100.000.000 đồng để nhờ xin việc cho cháu ông H nhưng không có giấy tờ biên nhận, không có ai là người chứng kiến.

- Xác minh tại Công an xã Xuân Quan, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên và Ban quản lý tòa nhà E2 Ecopark được biết: Tại tòa nhà E2 Ecopark, không có ai tên là O sinh sống và đăng ký tạm trú tại địa chỉ này.

Ngoài lời khai của T không có tài liệu gì khác để chứng minh việc T đưa tiền cho O, như vậy, đủ căn cứ kết luận T có hành vi lừa đảo chiếm đoạt số tiền 330.000.000 đồng của ông H.

7. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền của ông Đinh Văn R, sinh năm 1972, địa chỉ: Chùa Hội X, xã G, huyện T, thành phố Hà Nội:

Năm 2016, qua mối quan hệ xã hội, ông Đinh Văn R quen biết T và được T giới thiệu có quan hệ với nhiều lãnh đạo cấp cao, có khả năng xin được nhiều dự án đầu tư, làm các thủ tục về đất đai. Do chùa Hội X thuộc xã Thắng Lợi, huyện Thường Tín, Hà Nội đang đề nghị Trung đoàn 17, Binh đoàn 12 Bộ Quốc phòng trả lại phần diện tích đất khoảng 8.190 m2 đang quản lý, ông R là quản lý chùa nhờ T đề nghị Trung đoàn 17, Binh đoàn 12 Bộ Quốc phòng trả lại phần diện tích đất khoảng 8.190 m2. T đồng ý và cam kết sẽ làm các thủ tục để trả lại nguyên trạng phần đất trên cho chùa Hội X trong quý 2/2017. Ngày 02/01/2017, ông R tự ứng tiền đưa cho T 300.000.000 đồng và T viết Giấy biên nhận cho ông R. Sau khi nhận tiền T không thực hiện bất kỳ thủ tục gì để chùa Hội X nhận lại thửa đất trên, số tiền chiếm đoạt T đã chi tiêu cá nhân hết. Ông R yêu cầu T trả lại số tiền 300.000.000 đồng đã chiếm đoạt.

8. Hành vi chiếm đoạt của 16 người bị hại theo đơn tố giác của bà Ngô Thị N; địa chỉ: số 108A ngõ 120 Trần B, phường M, quận C, thành phố Hà Nội:

Khoảng năm 2014, bà Ngô Thị N quen biết T do T thường xuyên đến công ty của bà N tại địa chỉ: P1010 tòa nhà 7A Lê Đức Th, phường Mai Dịch, quận C, thành phố Hà Nội và gặp nhiều khách hàng của công ty. Qua trao đổi, bà N được T giới thiệu có nhiều mối quan hệ xã hội, có khả năng xin được cho nhiều người vào ngành Công an, biên chế nhiều đơn vị Nhà nước khác nhau và xin các dự án đầu tư, xin số đỏ, cấp giấy tờ đất đai. Tin là thật, bà N đưa cho T 8.655.000.000đ để xin việc làm, xin sổ đỏ cho 16 trường hợp (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) và T viết giấy nhận tiền xin việc làm của 16 trường hợp. Cụ thể 16 trường hợp được ghi trong giấy như sau:

- T cam kết xin cho anh D ở Hải Dương chuyển công tác và được bổ nhiệm Phó trưởng Công an huyện Kinh Môn, Hải Dương và nhận số tiền 1 tỷ đồng.

- T hứa hẹn giúp 3 cháu nhà anh D vào ngành công an và nhận số tiền là 1,2 tỷ đồng.

- T cam kết xin cho 04 trường hợp đi học trường trung cấp trại giam Hưng Yên và nhận số tiền 01 tỷ đồng.

- T hứa hẹn giúp cháu anh D vào học tại trường Học viện An ninh nhân dân và nhận số tiền 500 triệu đồng.

- T hứa hẹn giúp gia đình ông bà Trường T vào trường trung cấp trại giam Hưng Yên và nhận số tiền 1,2 tỷ đồng.

- T cam kết làm giúp bà Q sổ đỏ và nhận số tiền 150 triệu đồng.

- Tương tự: T hứa hẹn giúp bà A làm sổ đỏ và nhận số tiền 80 triệu đồng.

- T hứa hẹn giúp gia đình Hồng Việt Đ để xin vào làm việc tại bệnh viện và nhận số tiền là 480 triệu đồng.

- T hứa hẹn giúp bà X để xin vào làm việc tại bệnh viện và nhận số tiền là 300 triệu đồng.

- T hứa hẹn giúp cháu G để xin vào trường Cao đẳng nhạc họa và nhận số tiền 380 triệu đồng.

- T hứa hẹn giúp cháu Quảng A để xin đi học tại trường quân đội và nhận của ông Ánh số tiền là 335 triệu đồng.

- T hứa hẹn giúp chị T ở Lào Cai để xin cho chị T đi học trường trung cấp trại giam và nhận số tiền 260 triệu đồng.

- T hứa hẹn giúp chị J để xin vào ngành công an cho chị J và nhận số tiền 1,4 tỷ đồng.

- T hứa hẹn giúp chị E ở Đông Anh, thành phố Hà Nội làm thủ tục đền bù giải phóng mặt bằng và nhận số tiền 350 triệu đồng.

- T hứa hẹn giúp ông F để xin vào làm tại Tổng công ty viễn thông quân đội Viettel và nhận số tiền 100 triệu đồng.

- T hứa hẹn giúp ông G ở Quảng Ninh vào bộ đội chuyên nghiệp biên phòng ở Quảng Ninh và nhận số tiền là 300 triệu đồng.

- T vay tiền của bà Y số tiền 30 triệu đồng. Sau khi nhận tiền, T không thực hiện như đã cam kết và đã chi tiêu cá nhân hết.

Tại cơ quan điều tra Ngô Thị N khai: Các lần T làm việc với 16 người này tại Công ty của bà N (bà N không biết cụ thể 16 người này là ai, ở đâu, làm gì), bà N chứng kiến họ đưa tiền cho T nhưng không có giấy tờ biên nhận. Do T không thực hiện được như đã cam kết và không gặp được T nên những người trên yêu cầu bà N trả lại tiền. Vì vậy, ngày 28/4/2018 bà N yêu cầu T viết Giấy nhận tiền xin việc làm của 16 người trên nhưng T không xin được việc cho trường hợp nào. Đến nay, T không trả lại tiền cho những người trên.

- Cơ quan điều tra đã thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng nhưng đến nay không có ai trong 16 người trên đến Cơ quan điều tra trình báo.

- Xác minh tại Công an phường Mai Dịch, quận C, thành phố Hà Nội và gia đình bà N: Bà N không có mặt tại địa phương, hiện bà N đi đâu, làm gì gia đình và chính quyền địa phương không biết. Vì vậy, chưa đủ căn cứ làm rõ việc bà N giới thiệu với 16 người trên như thế nào để gặp T và giao tiền cho T nhờ xin việc.

Đối với Ngô Thị N, hiện nay không có mặt tại địa phương nên Cơ quan điều tra chưa làm rõ được hành vi nhận tiền của bị hại và đưa T, do vậy Cơ quan điều tra đã ra Quyết định tách rút tài liệu liên quan đến bà N để tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ và xử lý sau. Tách phần trách nhiệm dân sự của các trường hợp này để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự khi có yêu cầu.

9. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền của bà Trương Thị Xuân X; địa chỉ: Số 54 Trần Tử Bình, phường Nghĩa Tân, quận C, thành phố Hà Nội:

Năm 2016, bà Trương Thị Xuân X quen biết T và được T giới thiệu có quen biết các lãnh đạo của Bộ Quốc phòng nên có chỉ tiêu xin vào làm việc tại Tổng công ty viễn thông quân đội Viettel với chi phí là 270.000.000 đồng và Ngân hàng MB tại các quận thuộc thành phố Hà Nội với chi phí là 300.000.000 đồng. Tin là thật, bà X nhờ T xin cho con gái là chị Lê Phương P vào làm kế toán của ngân hàng MB - Chi nhánh C, thành phố Hà Nội. T đồng ý và hứa hẹn trong thời gian 1 tháng chị P sẽ được đi làm. Ngày 18/7/2016, tại quán café gần nhà T ở số 2Q-20 Tương Mai, M, Hà Nội, bà X đưa cho T 300.000.000 đồng và T viết giấy nhận tiền và cam kết cho bà X. Sau đó, T không xin được việc cho chị P, bà X nhiều lần đề nghị T trả tiền thì ngày 02/02/2018, T vẫn tiếp tục cam kết sẽ xin được cho chị P đi làm tại ngân hàng MB trước ngày 15/3/2018 nhưng đến nay T không thực hiện và không trả lại tiền cho bà X. Bà X yêu cầu T trả lại số tiền 300.000.000 đồng đã chiếm đoạt.

Tại Cơ quan điều tra T khai sau khi nhận số tiền 300.000.000 đồng của bà X, T đưa tiền cho đối tượng tên O (tòa nhà E2 Ecopark, xã Xuân Quan, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên) 3 lần gồm: 2 lần 125.000.000 đồng, 1 lần 50.000.000 đồng, tổng 300.000.000 đồng nhưng không có giấy tờ biên nhận và không có ai chứng kiến.

- Xác minh tại Công an xã Xuân Quan, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên và Ban quản lý tòa nhà E2 Ecopark được biết: Tại tòa nhà E2 Ecopark, không có ai tên là O sinh sống và đăng ký tạm trú tại địa chỉ này.

- Xác minh tại ngân hàng MB được biết: Ngân hàng MB không có chi nhánh C.

Ngoài lời khai của T không có tài liệu gì khác để chứng minh việc T đưa tiền cho O, như vậy, đủ căn cứ kết luận T có hành vi lừa đảo chiếm đoạt số tiền 300.000.000 đồng của bà X.

10. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền của ông Tô Hồng M; địa chỉ số 7 ngách 175/1 Định C, phường Định C, quận M, thành phố Hà Nội:

Năm 2015, qua bạn bè giới thiệu ông Tô Hồng M quen biết T và được T giới thiệu khả năng xin đi học tại các trường công an nhân dân, trong đó có chỉ tiêu đi học hệ dân sự trường Đại học Phòng cháy chữa cháy tháng 6/2016, chi phí hết 500.000.000 đồng. Tin là thật, ông M nhờ T xin cho cháu là chị Vũ Thị E (sinh ngày 19/4/1997, địa chỉ: Trực Ninh, Nam Định) đi học trường Đại học Phòng cháy chữa cháy. T đồng ý và hứa sau khi đi học, tốt nghiệp xong T sẽ xin cho chị Nội vào biên chế Công an Phòng cháy chữa cháy thành phố Hà Nội. Ngày 28/6/2016, ông M đưa cho T số tiền 150.000.000 đồng để đặt cọc và bộ hồ sơ của chị Nội. Ngày 03/11/2016, ông M đưa tiếp cho T 350.000.000 đồng, tổng số là 500.000.000 đồng (tiền do ông M tự ứng ra) và T viết giấy nhận tiền cho ông M với số tiền 500.000.000 đồng. Sau đó, T nộp hồ sơ xét tuyển của chị Nội vào trường Đại học Phòng cháy chữa cháy và chị Nội trúng tuyển theo Quyết định nhập học khóa KS14 hệ ngoài ngành công an khóa 2016 -2018 số 3211/QĐ-T34-P8 ngày 21/11/2016 của Trường ĐH Phòng cháy chữa cháy. Ngày 26/9/2018, chị E tốt nghiệp nhưng khi ra trường không được vào làm việc tại Công an phòng cháy chữa cháy thành phố Hà Nội như T đã cam kết, số tiền chiếm đoạt T đã chi tiêu cá nhân hết. Ông M yêu cầu T trả lại số tiền 500.000.000 đồng đã chiếm đoạt.

11. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền của ông Võ Sơn A, sinh năm 1985;

nơi cư trú: số 16/87/60 Nguyễn T, phường 2, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh:

Qua mối quan hệ xã hội, ông Võ Sơn A quen biết với T, do T biết ông Sơn A kinh doanh, buôn bán nguyên liệu thuốc lá nên T tạo ra một người tên Anh (không có thật) và giới thiệu với ông Sơn A về việc người tên T này có khả năng giới thiệu cho ông Sơn A được cung cấp nguyên liệu thuốc lá cho Tổng công ty thuốc lá Việt Nam. Tin là thật, ngày 03/12/2016, ông Sơn A và T gặp nhau tại khách sạn ở khu vực quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội để trao đổi, thống nhất việc T hứa sẽ giúp ông Sơn A bán nguyên liệu lá thuốc lá cho công ty thuốc lá Việt Nam, đồng thời ký “tờ cam kết” thỏa thuận với nội dung “T có trách nhiệm liên hệ, làm việc với các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền của Công ty thuốc lá Thăng Long để tạo điều kiện cho Công ty của ông Sơn A ký hợp đồng cung ứng nguyên liệu lá thuốc lá cho Công ty thuốc lá Việt Nam, số lượng 1.500 tấn, trong thời gian 30 ngày kể từ ngày ký cam kết, chi phí là 10.000.000.000 đồng”.

Ngày 06/12/2016, ông Sơn A chuyển số tiền 2.000.000.000 đồng vào tài khoản của T mở tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn - Chi nhánh Đống Đa, thành phố Hà Nội, số tài khoản: 15042050309. Sau khi T nhận tiền, ông Sơn A thấy T không thực hiện như cam kết nên đã nhiều lần yêu cầu T trả lại tiền. Đến tháng 3/2017, T đã trả cho ông Sơn A tổng số tiền 800.000.000 đồng bằng hình thức chuyển vào tài khoản của bà Trần Kim H (sinh năm 1957; nơi cư trú: số 16/87/60 Nguyễn Thiện T, phường 2, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh) là mẹ đẻ ông Sơn A mở tại ngân hàng BIDV-chi nhánh Đông Sài Gòn, số tiền còn lại 1.200.000.000 đồng, T chiếm đoạt và chi tiêu cá nhân hết. Ông Sơn A yêu cầu T trả lại số tiền 1.200.000.000 đồng đã chiếm đoạt.

- Xác minh tại Tổng công ty thuốc lá Việt Nam được biết; Từ năm 2016 đến nay, T không làm việc hay đặt vấn đề về việc bán nguyên liệu thuốc lá cho các đơn vị trong Tổng công ty thuốc lá Việt Nam.

12. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền của ông Nguyễn Chí C, sinh năm 1968;

nơi cư trú: thôn Phú T, xã H, huyện Gia L, tỉnh Hải Dương:

Năm 2017, thông qua mối quan hệ xã hội, chị Nguyễn Thị J (Sinh năm 1991; nơi cư trú: thôn Phú Triều, xã Liên Hồng, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương) quen biết T và được T giới thiệu có khả năng xin vào làm việc tại Bệnh viện K - Bộ Y tế trong thời gian 03 tháng là được đi làm với chi phí là 420.000.000 đồng. Tin là thật, chị T về nói chuyện với gia đình, ông C là bố đẻ chị J bảo chị J nhờ T xin cho em gái là chị Nguyễn Thị Y vào làm Bệnh viện K, T đồng ý. Ngày 06/02/2017, ông C và chị J gặp T tại quán café trên đường Nguyễn Chí Thanh, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội (chị J không nhớ địa chỉ cụ thể). Tại đây, ông C đưa cho T 420.000.000 đồng và T viết giấy cam kết và nhận tiền cho ông C; sau đó, T tiếp tục đề nghị gia đình chị J đưa thêm tiền để xin vào công chức cho chị Y; ông C đưa cho chị J 50.000.000 đồng để đưa cho T. Ngày 17/7/2017, tại khu vực Times City thuộc quận M, thành phố Hà Nội, chị J tiếp tục đưa cho T 50.000.000 đồng. Sau khi nhận tổng số tiền 470.000.000 đồng, T không thực hiện như cam kết và đã chi tiêu cá nhân hết. Ông C yêu cầu T trả lại số tiền 470.000.000 đồng đã chiếm đoạt.

- Xác minh tại Bệnh viện K - Bộ Y tế: Từ năm 2017 đến nay, Bệnh viện K không tiếp nhận hồ sơ hay tiếp nhận cán bộ nào là Nguyễn Thị Y có thông tin như trên.

Bản kết luận giám định số 6096 ngày 01/11/2017, số 2964 ngày 31/7/2018, số 8741 ngày 21/11/2018, số 211 ngày 09/01/2019, số 2831 ngày 13/5/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội kết luận: chữ ký, chữ viết đứng tên Nguyễn Vũ Thu T trên “Giấy hẹn” ngày 20/01/2017; “Tờ cam kết ” ngày 03/12/2016; trên 18 “Giấy biên nhận”; trên 05 “Giấy cam kết” và “Bản chốt công việc” ngày 02/02/2016 với chữ viết, chữ ký đứng tên Nguyễn Vũ Thu T trên các tài liệu mẫu so sánh là chữ do cùng một người ký và viết ra.

II. Hành vi đồng phạm của Phạm Huy S với Nguyễn Vũ Thu T chiếm đoạt tiền của các bị hại, cụ thể như sau:

1. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền của bà Trần Thị Q; địa chỉ: số 19 ngõ 195 đường Liên M, phường Liên M, quận B, thành phố Hà Nội:

Qua mối quan hệ xã hội, bà Trần Thị Q quen biết T và được T giới thiệu có quen biết một số lãnh đạo cấp cao Bộ Công an. Bà Q tin tưởng nên nhờ T xin cho cháu họ là anh Nguyễn Văn Ch (sinh năm 1991; địa chỉ: tổ dân phố 4, phường T, quận B, thành phố Hà Nội) vào làm điều dưỡng tại Bệnh viện 198 - Bộ Công an, T đồng ý và hứa trong quý 4/2013 anh Ch sẽ được đi làm, chi phí là 380.000.000 đồng. Ngày 10/9/2013, tại nhà T, bà Q đưa cho T 100.000.000 đồng và T viết giấy biên nhận tiền cho bà Q. Ngày 11/9/2013, bà Q chuyển vào tài khoản của T mở tại ngân hàng Agribank - chi nhánh Đống Đa số tiền 100.000.000 đồng. Ngày 05/11/2013, bà Q tiếp tục đưa cho T 50.000.000 đồng; ngoài ra, bà Q nhiều lần khác đưa tiền cho T với tổng số tiền là 120.000.000 đồng nhưng T không viết giấy biên nhận tiền. Tổng số tiền bà Q đưa cho T là 370.000.000 đồng (số tiền này do bà Q tự ứng ra). Đến cuối năm 2015, T viết “Bản chốt công việc 2015” cho bà Q với nội dung là sẽ xin cho anh Ch vào làm việc tại Bệnh viện 198 nếu không sẽ tiếp tục xin cho anh Ch vào làm việc tại Bệnh viện y học cổ truyền - Bộ Công an, số tiền 370.000.000 đồng. Sau đó T giới thiệu bà Q là T có quen Phạm Huy S đang làm việc tại Bộ Công an có khả năng xin cho anh Ch vào làm việc tại Bệnh viện y học cổ truyền Bộ Công an và giới thiệu bà Q gặp S. Khoảng tháng 5/2015, bà Q và anh Ch gặp S tại Bệnh viện 198 - Bộ Công an; S đưa anh Ch đi khám sức khỏe và nhận hồ sơ xin việc của anh Ch, đồng thời S cam kết 01 tháng sau sẽ xin được cho anh Ch đi làm tại Bệnh viện y học cổ truyền. Sau đó, anh Ch không được đi làm tại Bệnh viện y học cổ truyền theo như S cam kết và T cũng không trả lại tiền cho bà Q. Bà Q yêu cầu T trả lại 370.000.000 đồng đã chiếm đoạt.

- Xác minh tại Bệnh viện 198, bệnh viện y học cổ truyền - Bộ Công an xác định: Từ năm 2013 đến nay, Bệnh viện 198, Bệnh viện y học cổ truyền không tiếp nhận hồ sơ dự tuyển và tuyển dụng cán bộ nào là Nguyễn Văn Ch có thông tin như trên.

Ngoài ra khoảng tháng 5/2015, bà Q còn nhờ T xin cho cháu là anh Vũ Quốc P (sinh năm 1997; nơi cư trú: số 2 ngõ 3 Trương Đ, phường Đ, quận B, thành phố Hà Nội) đi nghĩa vụ Công an thành phố Hà Nội. T giới thiệu với bà Q là Phạm Huy S có nhiều mối quan hệ tại Bộ Công an, có khả năng xin được và chi phí là 600.000.000 đồng. Ngày 26/5/2015, tại nhà T, bà Q đưa cho T 300.000.000 đồng (tiền do bà Q tự ứng ra) và T viết giấy biên nhận tiền cho bà Q. Sau đó, anh P được Phạm Huy S đưa đi khám sức khỏe tại Bệnh viện 198 - Bộ Công an. Tại đây, S hứa hẹn với gia đình anh P là sẽ giúp được cho anh P đi nghĩa vụ công an. Sau đó, T và S không thực hiện như đã cam kết và cũng không trả lại tiền cho bà Q. Bà Q yêu cầu T trả lại 300.000.000 đồng đã chiếm đoạt.

- Tại cơ quan điều tra T khai đã đưa cho Phạm Huy S 01 lần 350.000.000 đồng và 01 lần 300.000.000 đồng tại quán café số 239 Tô Hiệu hoặc trên đường Trần Thái Tông, quận C, thành phố Hà Nội nhưng không có giấy tờ biên nhận và không có ai là người chứng kiến.

- Phạm Huy S không thừa nhận đã nhận của T số tiền 650.000.000 đồng, mà mỗi lần gặp T, T cho S khoảng chục triệu đồng (S không nhớ đã nhận của T bao nhiêu lần) do S giới thiệu xin việc vào ngành Công an cho T để T giới thiệu với bà A.

- Cơ quan điều tra tiến hành đối chất giữa bị can Nguyễn Vũ Thu T với bị can Phạm Huy S, kết quả hai bên vẫn giữ nguyên lời khai.

Như vậy chưa đủ căn cứ kết luận S nhận của T số tiền 650.000.000 đồng của bà A. Căn cứ vào lời khai và biên bản nhận dạng của bà Q, anh Ch và anh P cùng lời khai của T đủ căn cứ kết luận S mặc dù chưa xác định được hưởng lợi nhưng đã có hành vi đồng phạm với vai trò giúp sức cho bị cáo T chiếm đoạt số tiền 670.000.000 đồng của bà Q.

2. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền của bà Dương Thị Thu A và ông Phan Ngọc V; địa chỉ: Thôn Đồng Q, xã M, huyện L, tỉnh B và bà Dương Thị Hồng H; địa chỉ: 175 Hoàng Hoa T, thị trấn C, huyện Y, tỉnh B:

Khoảng tháng 10/2015, Phạm Huy S giới thiệu với Nguyễn Vũ Thu T là S đang có 02 chỉ tiêu đi học tại các trường công an nhân dân do S có quan hệ với nhiều lãnh đạo khi công tác tại Tổng cục 4 - Bộ Công an, chi phí hết 700.000.000 đồng, nếu T biết ai có nhu cầu thì cùng S xin cho họ đi học. Vì vậy, ngày 15/10/2015, tại quán café số 239 Tô Hiệu, quận C, thành phố Hà Nội, T lấy tiền của các bị hại trước đó đưa cho S 700.000.000 đồng và S viết Giấy nhận tiền đặt cọc xin việc với T. Sau đó, khoảng tháng 11/2015, thông qua anh Nguyễn Văn M (sinh năm 1967; nơi cư trú: Công ty CP dịch vụ đường cao thế Việt Nam, tầng 5 tòa nhà Mitec, Yên Hòa, C, Hà Nội), Nguyễn Vũ Thu T quen biết và giới thiệu với bà Dương Thị Thu A và bà Dương Thị Hồng H có người nhà làm tại trường trung cấp cảnh sát nên có khả năng xin đi học tại các Trường Công an nhân dân, tin là thật, bà H và bà A nhờ T xin cho con là anh Nguyễn Mạnh H, anh Phan Ngọc T vào học tại trường trung cấp cảnh sát. T đồng ý và thỏa thuận mỗi trường hợp là 450.000.000 đồng, đưa trước tháng 3/2016.

Ngày 21/11/2015, tại nhà T, bà H đưa cho T số tiền 450.000.000 đồng và T viết giấy cam kết nhận tiền để xin học cho con bà H. Cùng ngày, T viết trước một giấy cam kết xin đi học cho con bà A. Đến ngày 23/11/2015, bà A chuyển số tiền 450.000.000 đồng cho T vào tài khoản của T mở tại ngân hàng Agribank - chi nhánh Đống Đa số tài khoản; 1504205030971.

Ngày 03/12/2015, T tiếp tục trao đổi với bà A và bà H về việc tạm tuyển 2 con của bà A, bà H vào làm bảo vệ của Học viện an ninh sau đó sẽ được đi học tại Học viện An ninh, chi phí phát sinh thêm là 200.000.000 đồng/người. Cùng ngày, ông Phan Ngọc V là chồng bà A đã đưa cho T 200.000.000 đồng và T viết giấy nhận tiền. Sau khi nhận của bà A 650.000.000 đồng, bà H 450.000.000 đồng cùng hai bộ hồ sơ, T trao đổi với S để xin việc cho con bà A và bà H và đưa cho S hai bộ hồ sơ xin học của anh T và anh H vào Trường trung cấp Cảnh sát. Đến hẹn, T và S không thực hiện được như đã cam kết nên bà A, bà H đã nhiều lần yêu cầu T trả lại tiền. T trả lại cho bà A, bà H mỗi người 250.000.000 đồng, số tiền còn lại T chiếm đoạt và chi tiêu cá nhân hết. Bà A yêu cầu T trả lại 400.000.000 đồng và bà H yêu cầu T trả lại 200.000.000 đồng đã chiếm đoạt.

- Xác minh tại trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân 1, trường Học viện An ninh nhân dân xác định: Từ năm 2015 - 2017, trường cao đẳng Cảnh sát nhân dân 1 không chiêu sinh, nhập học thí sinh nào có tên Nguyễn Mạnh H và Phan Ngọc T. Từ năm 2015-2017, học viện An ninh nhân dân không có cán bộ hoặc học viên nào tên Phan Ngọc T có lý lịch như trên.

Tại Cơ quan điều tra, Phạm Huy S khai năm 2015, S vay của T 150.000.000 đồng (không có giấy tờ biên nhận và không có ai chứng kiến) để chi tiêu cá nhân. Ngoài ra, nhiều lần gặp T, mỗi lần T đưa cho S khoảng chục triệu đồng là tiền S giới thiệu xin việc vào ngành Công an cho T. Vì vậy, ngày 12/5/2016, T nhờ anh Vũ Đức T, anh Nguyễn Đăng N và anh Cao Ngọc T bắt ép S viết Giấy nhận tiền đặt cọc xin việc số tiền 700.000.000 đồng với T đề ngày 15/10/2015 tại quán café khu vực Linh Đàm, quận M, thành phố Hà Nội. Sau đó, T nhiều lần đề nghị trả lại tiền thì ngày 29/6/2016, 12/7/2016, S trả tiền mặt cho T tổng số tiền 65.000.000 đồng. Ngày 31/5/2017, 03/7/2017, S đã chuyển tiền vào tài khoản của T mở tại ngân hàng Agribank, số tài khoản 1504205030971, tổng số tiền 50.000.000 đồng. Tổng số tiền S đã trả cho T là 115.000.000 đồng.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Vũ Thu T thừa nhận hành vi phạm tội và khai như nội dung trên, - Cơ quan điều tra tiến hành đối chất giữa bị can Nguyễn Vũ Thu T với bị can Phạm Huy S: Cả bị can T và bị can S vẫn giữ nguyên lời khai.

- Xác minh và ghi lời khai anh Vũ Đức T được biết: Năm 2017, anh T cùng T đến nhà S tại địa chỉ P325 TT Đại học Luật, C, thành phố Hà Nội đề nghị trả lại tiền nhưng không gặp S. Anh T chưa gặp S bao giờ, việc S và T viết Giấy biên nhận tiền xin việc ngày 15/10/2015 như thế nào anh T không biết.

- Xác minh và ghi lời khai của anh Nguyễn Đăng N cho biết: Anh N không biết Nguyễn Vũ Thu T và Phạm Huy S là ai. Việc S và T viết Giấy biên nhận tiền đặt cọc xin việc ngày 15/10/2015 như thế nào anh N không biết.

- Xác minh thông tin Cao Ngọc T không có địa chỉ: Xã Bình Lâm, huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An.

- Bản kết luận giám định số 211 ngày 09/01/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội kết luận: Chữ ký, chữ viết dòng họ tên Phạm Huy S dưới chữ ký trên mẫu cần giám định (Ký hiệu A7) với chữ ký, chữ viết dòng họ tên Phạm Huy S dưới chữ ký trên mẫu so sánh (Ký hiệu M5) là do cùng một người ký và viết ra.

Ngoài lời khai trên của S không có tài liệu gì khác đề chứng minh việc S bị ép viết giấy Giấy nhận tiền đặt cọc xin việc số tiền 700.000.000 đồng cho T đề ngày 15/10/2015 tại quán café khu vực Linh Đàm, quận M, thành phố Hà Nội. Do vậy, đủ căn cứ kết luận Phạm Huy S dùng thủ đoạn gian dối thực hiện hành vi chiếm đoạt số tiền 700.000.000 đồng như đề cập ở trên.

Ngoài ra, T còn vay mượn tiền của nhiều người, cụ thể như sau: Vay của bà Trần Thị Q (địa chỉ: số 19 ngõ 195 đường Liên M, phường M, quận B, TP Hà Nội) số tiền: 620.000.000 đồng, ông Đinh Văn R (sinh năm 1972, địa chỉ: Chùa Hội X, xã Thắng L, huyện T, TP Hà Nội) số tiền: 3.650.000.000 đồng. Bà Lê Thị Đ (sinh năm 1968, địa chỉ: Thôn T, xã Y, huyện Hoa L, tỉnh Ninh Bình) số tiền: 3.344.000.000 đồng và Giấy CNQSDĐ số BH402666 của bà Đ tại thửa số 17 tờ bản đồ số 14 xã K, huyện N, tỉnh B. Bà Phạm Thị Thanh I (sinh năm 1977, địa chỉ: số 10/58/197 M, phường H, quận M, TP Hà Nội) số tiền:

3.790.000.000 đồng, ông Đoàn Ngọc L (địa chỉ: A52 TT5 tổ dân phố số 2, KĐT V, phường P, quận Đ, TP Hà Nội) số tiền: 1.700.000.000 đồng. Việc T vay mượn tiền của những người trên là quan hệ dân sự. Do vậy, không có căn cứ xác định T chiếm đoạt tiền của những người này. Cơ quan điều tra đã hướng dẫn những người có đơn trên đến Tòa án để giải quyết theo tố tụng dân sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 180/2020/HS-ST ngày 30/5/2020, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã tuyên bố bị cáo Nguyễn Vũ Thu T và bị cáo Phạm Huy S phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng:

- Điểm a khoản 4 Điều 174; Điều 48, Điều 50; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 589 Bộ luật Dân sự 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí. Xử phạt: Nguyễn Vũ Thu T 20 (hai mươi) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/7/2018.

- Điểm a khoản 4 Điều 174; Điều 48, Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015; Xử phạt: Phạm Huy S 08 năm tù. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo nay chuyển thành tù giam theo Bản án hình sự sơ thẩm số 182/2014/HSST ngày 23/9/2014 của Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. Tổng hợp hình phạt của hai bản án, bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 10 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/5/2019.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Nguyễn Vũ Thu T phải bồi thường cho:

- Bà Trần Thị Q số tiền 1.070.000.000đ (một tỷ không trăm bảy mươi triệu) - Bà Đinh Thi Hồng Đ số tiền 500.000.000đ (năm trăm triệu) - Ông Phạm Thế S số tiền 460.000.000đ (bốn trăm sáu mươi triệu) - Ông Bùi Thế Q số tiền 700.000.000đ (bẩy trăm triệu) - Ông Phạm Văn B số tiền 500.000.000đ (năm trăm triệu) - Anh Phan Huy H số tiền 230.000.000đ (hai trăm ba mươi triệu) - Ông Đinh Văn R số tiền 300.000.000đ (ba trăm triệu) - Bà Trương Thị Xuân X số tiền 300.000.000đ (ba trăm triệu) - Ông Tô Hồng M số tiền 500.000.000 đ (năm trăm triệu) - Anh Võ Sơn A số tiền 1.200.000.000đ (một tỷ hai trăm triệu) - Ông Nguyễn Chí C số tiền 470.000.000đ (bốn trăm bảy mươi triệư) - Bà Dương Thị Thu A số tiền 400.000.000đ (bốn trăm triệu) - Bà Dương Thị Hồng H số tiền 200.000.000 đ (hai trăm triệu) Tổng cộng 6.830.000.000đ (sáu tỷ tám trăm ba mươi triệu) Giành giải quyết bằng vụ kiện dân sự khác đối với các bị hại liên quan đến bà Ngô Thị N do cơ quan điều tra tách khi xác định được địa chỉ, danh tính cụ thể của các bị hại và có yêu cầu.

Buộc bị cáo S phải hoàn trả cho bị cáo T số tiền đã nhận của bị cáo T còn lại là 575.000.000đ (năm trăm bảy mươi lăm triệu) để T trả cho các bị hại.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 10/6/2020, bị cáo Nguyễn Vũ Thu T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 11/6/2020, bị cáo Phạm Huy S kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt Ngày 01/6/2020, người bị hại là bà Dương Thị Hồng H kháng cáo về phần dân sự, bà cho rằng bị cáo đã trả cho vợ chồng bà đầy đủ 450.000.000đ, còn thừa 50.000.000đ bà sẽ trả cho chị A, buộc bị cáo phải tiếp tục trả cho chị A 600.000.000đ.

Tại phiên tòa phúc thẩm.

Bị cáo Nguyễn Vũ Thu T vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Bị cáo Phạm Huy S kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và cho rằng bị cáo chỉ giúp T đưa C và P đi khám sức khỏe ở Bệnh viện 198 mà không hứa hẹn xin việc, cũng không biết H, T là ai, bị cáo bị T ép viết giấy nhận số tiền 700.000.000đ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội nêu quan điểm giải quyết vụ án: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Nguyễn Vũ Thu T và Phạm Huy S phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Xét kháng cáo của bị hại Dương Thị Hồng H là không có căn cứ nên không có cơ sở chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo và không chấp nhận kháng cáo của bị hại; giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Vũ Thu T đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ, chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Phạm Huy S đề nghị Hội đồng xem xét: Bị cáo S không có hành vi giúp sức cho bị cáo T chiếm đoạt số tiền 670.000.000đ. Về Giấy nhận nợ 700.000.000đ không phù hợp về thời gian so với các tài liệu, biên bản đối chất; chưa làm rõ S bị 03 đối tượng đi cùng T ép viết giấy nhận nợ. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo S do bị cáo đang mắc bệnh hiểm nghèo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận của các bị cáo Nguyễn Vũ Thu T và Phạm Huy S phù hợp với lời khai của các nhân chứng, người bị hại và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở xác định: Trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2017, Nguyễn Vũ Thu T và Phạm Huy S mặc dù không có chức năng, khả năng xin việc vào các cơ quan nhà nước, không có khả năng xin học vào các trường trong ngành Công an và biên chế vào các cơ quan ban ngành, ngành Ngân hàng và thực hiện đầu tư các dự án nhưng đã dùng thủ đoạn: Tự giới thiệu bản thân có mối quan hệ rộng, quen biết nhiều người và hứa hẹn có thể xin việc làm, xin học tại các trường trên địa bàn thành phố Hà Nội để 30 bị hại tin tưởng giao tiền cho T để xin việc, xin học cho người thân. Sau khi nhận tiền của các bị hại, T và S không làm gì để xin việc, xin học như đã hứa hẹn và chiếm đoạt toàn bộ số tiền các bị hại đã nộp để sử dụng chi tiêu cá nhân trong đó: Bị cáo Nguyễn Vũ Thu T trực tiếp thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt của 30 người bị hại với tổng số tiền chiếm đoạt là 17.675.000.000 đồng; trong số tiền mà bị cáo nhận của bà N do bà N không có mặt tại địa phương nên cơ quan điều tra đã tách ra để giải quyết sau khi lấy được lời khai của bà N. Bị cáo T đã trả lại cho các bị hại tổng số tiền là 990.000.000 đồng. Bị cáo Phạm Huy S trực tiếp nhận 700.000.000 đồng từ bị cáo T để hứa hẹn xin việc làm cho anh Hùng và anh Trung, sau đó S chiếm đoạt số tiền này và không thực hiện như cam kết; đồng phạm giúp sức cho bị cáo T lừa đảo chiếm đoạt của chị A với số tiền là 670.000.000 đồng, đến nay S đã trả lại cho T 115.000.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm đã quy kết các bị cáo Nguyễn Vũ Thu T và Phạm Huy S phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; do thời điểm bị cáo phạm tội Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực, tuy nhiên tội danh đã được chuyển tương ứng điều luật theo Bộ luật hình sự 2015 nên Viện kiểm sát và Tòa án cấp sơ thẩm đã truy tố và xét xử các bị cáo theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[2] Xét kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Vũ Thu T và Phạm Huy S và người bị hại trong vụ án là bà Dương Thị Hồng H.

[2.1] Đối với kháng cáo của bị cáo T: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bị cáo T chưa có tiền án tiền sự; có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã khắc phục một phần nhỏ hậu quả vụ án; bị cáo ra đầu thú; đây là các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo có tình tiết tăng nặng phạm tội từ hai lần trở lên theo quy định tại điểm g Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo cung cấp tài liệu có bố là thương binh; tuy nhiên số tiền bị cáo chiếm đoạt rất lớn, mới khắc phục một phần nhỏ nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo T, cũng như đề nghị của luật sư bào chữa cho bị cáo T.

[2.2] Xét kháng cáo của bị cáo Phạm Huy S: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, cụ thể: Nhân thân đã có 01 tiền án, lần này phạm tội là tái phạm; bị cáo phạm tội từ hai lần trở lên; đây là các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm g, h Điều 52 Bộ luật hình sự 2015. Bị cáo đã được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 là thành khẩn nhận tội một phần và bản thân bị cáo đang bị bệnh hiểm nghèo. Tại cấp phúc thẩm bị cáo không có tình tiết gì mới, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo S và đề nghị của luật sư.

[2.3] Đối với kháng cáo của người bị hại Dương Thị Hồng H: Bị cáo T đã chuyển trả vào tài khoản của chồng bà H số tiền 500.000.000đ. Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo T có ý kiến về việc số tiền này trả cho bà A và bà H mỗi người 250.000.000đ; bà A và bà H đều đã nhất trí; bà H sẽ trả cho bà A 250.000.000đ cho hai bên tự giải quyết với nhau (do là chị em ruột); do đó phần còn lại của chị A 400.000.000 đồng và của chị H là 200.000.000 đồng buộc bị cáo T phải có trách nhiệm trả cho bà H và bà A như Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định là có căn cứ. Nay bà H cho rằng số tiền mà bị cáo T chuyển qua tài khoản của chồng bà là trả cho một mình bà không phải trả cho bà H và bà A mỗi người một nửa là không có căn cứ chấp nhận. Do đó, không chấp nhận kháng cáo của bà H về vấn đề này.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Tòa án cấp sơ thẩm đã buộc bị cáo T phải bồi thường toàn bộ số tiền đã chiếm đoạt của các bị hại; bị cáo S phải hoàn trả cho bị cáo T số tiền đã nhận. Đối với 16 trường hợp thông qua bà Ngô Thị N xin cho 16 người, Cơ quan điều tra tách rút phần dân sự giải quyết sau bằng vụ kiện dân sự khác nên Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét là có căn cứ.

[4] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo T, bị cáo S phải chịu án phí hình sự phúc thẩm; bà Dương Thị Hồng H phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bởi các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Vũ Thu T, Phạm Huy S; không chấp nhận kháng cáo của người bị hại Dương Thị Hồng H; giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 180/2020/HS-ST ngày 30/5/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Vũ Thu T và bị cáo Phạm Huy S phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; Điều 48, Điều 50; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 589 Bộ luật Dân sự 2015.

Xử phạt: Nguyễn Vũ Thu T 20 (hai mươi) năm tù. Thời hạn từ tính từ ngày 19/7/2018.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; Điều 48, Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Phạm Huy S 08 (tám) năm tù. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo nay chuyển thành tù giam theo Bản án hình sự số 182/2014/HSST ngày 23/9/2014 của Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. Tổng hợp hình phạt của hai bản án, bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 10 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/5/2019.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Nguyễn Vũ Thu T phải bồi thường cho:

- Bà Trần Thị Q số tiền 1.070.000.000đ (một tỷ không trăm bảy mươi triệu) - Bà Đinh Thi Hồng Đ số tiền 500.000.000đ (năm trăm triệu) - Ông Phạm Thế S số tiền 460.000.000đ (bốn trăm sáu mươi triệu) - Ông Bùi Thế Q số tiền 700.000.000đ (bẩy trăm triệu) - Ông Phạm Văn B số tiền 500.000.000đ (năm trăm triệu) - Anh Phan Huy H số tiền 230.000.000đ (hai trăm ba mươi triệu) - Ông Đinh Văn R số tiền 300.000.000đ (ba trăm triệu) - Bà Trương Thị Xuân X số tiền 300.000.000đ (ba trăm triệu) - Ông Tô Hồng M số tiền 500.000.000đ (năm trăm triệu) - Anh Võ Sơn A số tiền 1.200.000.000đ (một tỷ hai trăm triệu) - Ông Nguyễn Chí C số tiền 470.000.000đ (bốn trăm bảy mươi triệu) - Bà Dương Thị Thu A số tiền 400.000.000đ (bốn trăm triệu) - Bà Dương Thị Hồng H số tiền 200.000.000đ (hai trăm triệu) Tổng cộng 6.830.000.000đ (sáu tỷ tám trăm ba mươi triệu) Giành giải quyết bằng vụ kiện dân sự khác đối với các bị hại liên quan đến bà Ngô Thị N do cơ quan điều tra tách khi xác định được địa chỉ, danh tính cụ thể của các bị hại và có yêu cầu.

Buộc bị cáo S phải hoàn trả cho bị cáo T số tiền đã nhận của bị cáo T còn lại là 575.000.000đ (năm trăm bảy mươi lăm triệu) để T trả cho các bị hại.

Án phí phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Vũ Thu T và bị cáo Phạm Huy S mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm. Bà Dương Thị Hồng H phải chịu 300.000đ án phí dân sự phúc thẩm, được đối trừ số tiền 300.000đ đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2018/0020241 ngày 07/7/2020 của Cục thi hành án thành phố Hà Nội (do ông Nguyễn Đức T nộp thay cho bà Dương Thị Hồng H).

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

334
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2021/HS-PT ngày 18/01/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:12/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về