Bản án 12/2020/HS-PT ngày 18/02/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 12/2020/HS-PT NGÀY 18/02/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang, mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 223/2019/TLPT-HS ngày 26 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo Mai Văn B do có kháng cáo của bị cáo B đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2019/HS-ST ngày 18 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện ST, tỉnh An Giang.

Bị cáo kháng cáo:

Mai Văn B, sinh ngày 19/02/1999; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: ấp TX 3, xã TT, huyện PT, tỉnh Bến Tre; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: Lớp 7/12; Cha: Mai Văn N, sinh năm 1967; Mẹ: Nguyễn Thị K, sinh năm 1968; Bị cáo chưa có vợ, con.

- Tiền án, tiền sự: Không;

- Bị tạm giam từ ngày 16/8/2019 đến nay.

- Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa:

Luật sư: Ông Ninh Văn Kh – Văn phòng luật sư Ninh Văn Kh, thuộc Đoàn luật sư tỉnh An Giang, bào chữa theo yêu cầu cho bị cáo Mai Văn B. (có mặt)

Địa chỉ: Số 44, đường TCQ, phường KB, thành phố XL, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Ngày 01/7/2019, bị cáo Mai Văn B thông qua Bùi Kim L nên biết anh Nguyễn Dương L1 (là anh chồng L) có vợ tên Vũ Ngọc H đang chấp hành án tù tại tỉnh Bình Dương. Do cần tiền trả nợ và tiêu xài nên bị cáo nảy sinh ý định dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tiền của anh L1. Để thực hiện ý định, bị cáo nói với chị L và anh L1 rằng mình là Công an Thành phố Hà Nội, ba mẹ nuôi của bị cáo làm việc tại Thành phố Hồ Chí Minh có thể lo cho vợ của anh L1 hưởng án treo với giá 50.000.000 đồng. Nhưng do anh L1 không có nhiều tiền nên bị cáo đồng ý giảm số tiền còn 30.000.000 đồng. Để tạo lòng tin cho anh L1, bị cáo cung cấp nhiều hình ảnh liên quan đến công việc của ngành Công an như: còng tay, roi điện, quần áo Công an…đến ngày 06/8/2019, anh L1 nhờ em ruột là Nguyễn Văn Sinh N đến Ngân hàng Sacombank - Phòng giao dịch ST chuyển cho bị cáo 30.000.000 đồng qua số tài khoản 070104716251 tên Mai Trung T do bị cáo cung cấp.

Đến ngày 11/8/2019, bị cáo trực tiếp đến nhà anh L1 tại xã GT, huyện ST và yêu cầu anh L1 đưa thêm số tiền 5.000.000 đồng để lo cho những người đưa vợ anh L1 từ Bình Dương về thành phố XL, An Giang, thì anh L1 tin tưởng nên đồng ý giao tiền cho bị cáo. Nhưng do không gặp được vợ như lời hứa của bị cáo, gia đình anh L1 nghi ngờ bị cáo lừa đảo chiếm đoạt tiền nên ngày 16/8/2019, bà Võ Thị X (mẹ ruột anh L1) đến Công an xã GT tố giác hành vi của bị cáo. Sau đó, bị cáo bị bắt giữ khi đang trên đường từ huyện ST về Thành phố Hồ Chí Minh.

Vật chứng thu giữ: 01 điện thoại di động Oppo A37 màu đen; 01 điện thoại di động Nokia 108 màu đen; tiền Việt Nam 544.000 đồng.

Kết luận giám định số 116/KLGĐ - PC09 ngày 08/10/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh An Giang đã trích xuất dữ liệu trong 02 điện thoại di động thu giữ của bị can, xác định đã tìm thấy dữ liệu nghi vấn có liên quan được lưu trữ, cụ thể gồm 41 trang và 01 đĩa DVD.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2019/HS-ST ngày 18 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện ST, tỉnh An Giang, quyết định:

Tuyên bố bị cáo Mai Văn B, phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Căn cứ: khoản 1 Điều 174; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt: Bị cáo Mai Văn B 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/8/2019.

Ngoài ra, án sơ thẩm xử còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 27/11/2019, bị cáo Mai Văn B có đơn kháng cáo với nội dung: Xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo Mai Văn B vẫn giữ yêu cầu kháng cáo xin giảm hình phạt, với lý do: Hoàn cảnh gia đình khó khăn.

Kiểm sát viên thực hiện quyền công tố tại phiên tòa, sau khi xét hỏi tranh luận, xem xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo; xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và yêu cầu kháng cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử, áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư trình bày lời bào chữa cho bị cáo Mai Văn B: Thống nhất về tội danh và khung hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử, không tranh luận. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bồi thường xong toàn bộ số tiền chiếm đoạt; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; phạm tội khi tuổi còn trẻ; cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội nhiều lần là quá máy móc, vì số tiền 5.000.000 đồng là do người bị hại tự đưa, chứ bị cáo không có chiếm đoạt; có thể xử phạt bị cáo khoảng 09 tháng tù cũng đủ giáo dục, cải tạo bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Bị cáo Mai Văn B nộp đơn kháng cáo trong hạn luật định, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận và xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thừa nhận thực hiện hành vi phạm tội như nội dung án sơ thẩm, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra; phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng; cùng các tài liệu, chứng cứ khác của vụ án được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử bị cáo Mai Văn B, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo thì thấy:

Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, là vi phạm pháp luật, nhưng bị cáo bất chấp pháp luật, hậu quả xảy ra và cố ý thực hiện. Chỉ vì muốn có tiền tiêu xài mà không phải bỏ ra công sức lao động, bị cáo đã lợi dụng quen biết với Bùi Kim L qua mạng xã hội, biết người thân của L đang chấp hành án phạt tù, nên bị cáo đã nảy sinh ý định lừa đảo bằng việc nói dối, giới thiệu mình đang công tác trong ngành Công an và có cha mẹ nuôi cũng đang công tác trong các Cơ quan pháp luật ở Trung ương có khả năng giúp chị của L, làm cho gia đình L tin tưởng và lừa gạt để chiếm đoạt nhiều lần người thân của L với số tiền 35.000.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Do đó, cần có một mức hình phạt nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục, cải tạo răn đe và phòng ngừa chung.

Xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đánh giá đúng đắn, đầy đủ toàn diện tính chất mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và tuyên phạt bị cáo Mai Văn B 01 năm 08 tháng tù là phù hợp, thỏa đáng. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo kháng cáo nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới, ngoài các tình tiết giảm nhẹ mà án sơ thẩm đã xem xét, nên Hội đồng xét xử không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm như đại diện Viện kiểm sát đề nghị.

[4] Các phần quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Lời bào chữa của Luật sư được Hội đồng xét xử xem xét, quyết định trong lúc nghị án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Mai Văn B xin giảm nhẹ hình phạt.

Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Áp dụng: khoản 1 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Mai Văn B 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 16/8/2019.

Bị cáo Mai Văn B phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các phần quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2020/HS-PT ngày 18/02/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:12/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về