Bản án 12/2020/HNGĐ-ST ngày 17/11/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOÀI ÂN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 12/2020/HNGĐ-ST NGÀY 17/11/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 17/11/2020, tại trụ sở TAND huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 168/2020/TLST-HNGĐ ngày 18/9/2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 06/11/2020, giữa các bên đương sự:

Nguyên đơn: Bà Đinh Thị L, sinh năm 1982;

Địa chỉ: Thôn 2, xã S, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định.

Bị đơn: Ông Đặng Văn C, sinh năm 1980;

Địa chỉ: Thôn 2, xã S, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định.

Nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 27/7/2020 và bản tự khai khai cũng như tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn bà Đinh Thị Lơ trình bày:

Về hôn nhân: Bà và ông Đặng Văn C tìm hiểu và tổ chức cưới trong năm 2008, đến năm 2011 mới đăng ký kết hôn tại UBND xã S, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định. Sau khi cưới, vợ chồng sống ở Thôn 2, xã S, huyện Hoài Ân. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc có được 02 con. Đến năm 2017 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do ông C thường xuyên uống rượu về đập phá tài sản trong nhà và nhiều lần đánh bà. Nay, bà xét thấy vợ chồng không còn tình cảm nên yêu cầu được ly hôn ông Đặng Văn C.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Đinh Thị Đăng M, sinh ngày 08/12/2008 và Đinh Đặng Hoàng L1, sinh ngày 23/8/2012, bà yêu cầu Tòa án giao 02 con cho bà nuôi dưỡng, yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con mỗi con mỗi tháng 1.000.000,đ.

Về tài sản chung: Bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn ông Đặng Văn C trình bày: Ông thống nhất như trình bày của bà L về quá trình vợ chồng đi đến hôn nhân, sau khi kết hôn vợ chồng sống chung cùng gia đình bà L một thời gian thì gia đình phía vợ cho đất, vợ chồng góp tiền xây nhà ở cho đến nay. Ông cho rằng nguyên nhân mâu thuẫn là do mỗi lần ông đi làm về bà L hay chửi, xúc phạm đến gia đình ông, nói ông ăn bám, nhiều lần như thế nên ông bực tức, vợ chồng có xô xát, đánh nhau nhưng sau đó vẫn sống bình thường, cùng nhau làm ăn nuôi dạy con. Nay ông vẫn còn thương vợ nên không đồng ý ly hôn, yêu cầu cho vợ chồng đoàn tụ. Nếu Tòa án cho vợ chồng ly hôn thì ông yêu cầu được nuôi cháu M, đồng ý giao cháu L1 cho bà L nuôi dưỡng, không ai cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung ông yêu cầu vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện VKSND huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định tham gia phiên Tòa phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Xét thấy mâu thuẫn tình cảm vợ chồng bà Đinh Thị L và ông Đặng Văn C mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, nên đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, cho bà Đinh Thị L được ly hôn ông Đặng Văn C.

Về con chung: Theo nguyện vọng của các cháu giao con chung tên Đinh Thị Đăng M và Đinh Đặng Hoàng L1 cho bà Đinh Thị L nuôi dưỡng, buộc ông Châu cấp dưỡng nuôi con mỗi con mỗi tháng 1.000.000,đ là phù hợp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng, Tòa án nhân dân huyện Hoài Ân nhận định.

[1]. Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn bà Đinh Thị L có đơn yêu cầu ly hôn ông Đặng Văn C, yêu cầu được nuôi con. Đây là vụ án hôn nhân và gia đình về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn ông Đặng Văn C có hộ khẩu thường trú tại xã S, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hoài Ân.

[2.] Về quan hệ hôn nhân:

[2.1] Bà Đinh Thị L, ông Đặng Văn C quen biết, tìm hiểu nhau và tự nguyện đi đến hôn nhân vào năm 2008, có đăng ký kết hôn tại UBND xã S, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định vào ngày 08/12/2011, nên hôn nhân của ông bà là hợp pháp. Sau khi cưới, vợ chồng sống tại Thôn 2, xã S, thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc và có được 02 con. Đến khoảng năm 2017, vợ chồng bắt đầu xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do ông C hay uống rượu về nhà đánh bà L, bà L cũng có lời nói không tôn trọng, xúc phạm ông C và gia đình ông nên làm cho mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, cả ông C và bà L đều không kèm chế được khi có mâu thuẫn nên nhiều lần cả hai cùng xô xát gây thương tích cho nhau, mâu thuẫn vợ chồng trong thời gian dài làm cho cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Hiện nay, tuy ông bà ở chung nhà nhưng phần ai nấy lo, không quan tâm chăm sóc cho nhau, mục đích của hôn nhân đã không đạt được. Nay bà L yêu cầu ly hôn ông C là có căn cứ để chấp nhận.

[2.2] Còn đối với yêu cầu của ông C yêu cầu được đoàn tụ thì thấy rằng: nguyên nhân mâu thuẫn chính của vợ chồng là do ông C thường xuyên uống rượu về đập phá tài sản trong gia đình, nhiều lần đánh bà L. Mâu thuẫn xảy ra từ năm 2017, bà L đã khởi kiện yêu cầu ly hôn, được Tòa án hòa giải đoàn tụ, ông C cũng đã cam kết từ bỏ uống rượu, không đánh vợ nhưng đến nay tình trạng này vẫn tái diễn, ông không thực hiện được những cam kết tại Tòa án. Tại phiên tòa hôm nay bà L kiên quyết được ly hôn ông C, do đó yêu cầu được đoàn tụ của ông C là không có cơ sở để chấp nhận.

[3] Về con chung: Bà L, ông C có 02 con chung tên Đinh Thị Đăng M, sinh ngày 08/12/2008 và Đinh Đặng Hoàng L1, sinh ngày 23/8/2012, hiện nay cháu M đang học tại trường Dân tộc nội trú huyện Hoài Ân, cháu L1 đang học tiểu học tại trường Tiểu học S. Tại phiên tòa hôm nay bà L, ông C đều yêu cầu nhận nuôi con, đây là yêu cầu chính đáng và cũng là thể hiện trách nhiệm của cha mẹ đối với con. Nhưng xét theo nguyện vọng của các con tại biên bản lấy lời khai ngày 12/10/2020, cháu M, cháu L1 có nguyện vọng được ở với mẹ khi cha mẹ ly hôn, do đó cần giao cả hai con cho bà L nuôi dưỡng là phù hợp.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Xét thấy con chung thì cha mẹ phải có trách nhiệm cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng. Người không trực tiếp nuôi thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Tại phiên tòa hôm nay bà L yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000,đ/con. Với mức thu nhập của ông C mỗi tháng thu nhập trung bình khoảng 4.000.000,đ so với yêu cầu cấp dưỡng của bà L là cao, nên HĐXX đồng ý mức cấp dưỡng môi con mỗi tháng 800.000,đ là phù hợp.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn, bị đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên HĐXX không xem xét.

[6] Về án phí: Nguyên đơn là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế khó khăn nên được miễn án phí ly hôn. Bị đơn Đặng Văn C phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con 300.000,đồng theo quy định của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28; 35; 39; 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 56; 69; 71; 81; 82; 83; 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn;

Bà Đinh Thị L được ly hôn ông Đặng Văn C.

2. Về con chung: Giao con chung tên Đinh Thị Đăng M, sinh ngày 08/12/2008; Đinh Đặng Hoàng L1, sinh ngày 23/8/2012 cho bà Đinh Thị L trực tiếp nuôi dưỡng. Ông C được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được ngăn cản. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Ông Đặng Văn C phải đóng góp nuôi con với bà L mỗi con mỗi tháng 800.000,đồng cho đến khi con đủ 18 tuổi.

4. Về tài sản: không xem xét.

5. Về án phí: Án phí ly hôn sơ thẩm bà Đinh Thị L được miễn; Án phí cấp dưỡng nuôi con Ông Đặng Văn C phải chịu 300.000,đ.

6. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu xét xử theo trình tự phúc thẩm.

“Trường hợp bản án, quyết định được qui định theo điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6 điều 7 và điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

349
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2020/HNGĐ-ST ngày 17/11/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:12/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoài Ân - Bình Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:17/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về