Bản án 12/2019/HS-ST ngày 26/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TƯƠNG DƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 12/2019/HS-ST NGÀY 26/02/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 11/2019/TLST-HS ngày 22 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo: Họ và tên: Vi Văn B. Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 01 tháng 10 năm1992. Tại huyện  Tương Dương, tỉnh Nghệ An; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Bản H, xã Y, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: Không biết chữ; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn G: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vi Văn T và bà Tương Thị T; Vợ,con: Chưa có; Tiền án: Năm 2015 bị Tòa án nhân dân huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam xử phạt 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, chưa được xóa án tích. Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 29 tháng 11 năm 2018 đến nay. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị Tuyết Mai - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nghệ An (Có mặt).

- Người chứng kiến: Chương Văn G (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 07 giờ 00 phút ngày 29 tháng 11 năm 2018, Vi Văn B đến nhà Chương Văn G, sinh năm 1997, trú cùng Bản H, xã Y, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An, B nhờ G chở đến bản Đửa, xã Lượng Minh, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An để gặp bạn của mình, mục đích của Vi Văn B là đi tìm mua Hêrôin đưa về sử dụng, nhưng B không nói cho G biết, G đồng ý rồi lấy chiếc xe máy của mình mang Biển kiểm soát 37D-121.15 chở Vi Văn B đi đến bản Đửa, xã Lượng Minh. Khi đi đến đâu bản Đửa, Vi Văn B nói với Chương Văn G dừng xe chờ, còn một mình B đi bộ đi vào bản Đửa, tìm mua của một người đàn ông lạ mặt được 01 gói Hêrôin với giá 600.000đồng tại một ngôi nhà sàn bỏ hoang. Mua được Hêrôin Vi Văn B quay lại nơi Chương Văn G đang chờ và nói G chở về nhà. Trên đường đi về đến khu vực bản Vẽ, xã Yên Na, huyện Tương Dương thì bị Công an huyện Tương Dương phát hiện bắt quả tang, thu giữ bên tay trái cúa Vi Văn B 01 (một) gói Hêrôin được gói bằng bao Potylen màu vàng Vi Văn B khai nhận với Công an huyện Tương Dương đó là gói Hêrôin của B mua về để sử dụng. Công an huyện Tương Dương đã đưa Vi Văn B cùng tang vật về trụ sở lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng theo quy định của pháp luật.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại lập ngày 29/11/2018 của Cơ quan điều tra Công an huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An xác định: “Gói chất bột màu trắng thu giữ của Vi Văn B là Hêrôin có khối lượng là 0,75 gam (Không phẩy bảy mươi lăm gam)”.

Kết luận giám định số: 59/KL-PC09 (MT), ngày 03/12/2018 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: “Chất bột màu trắng thu giữ của Vi Văn B là chất ma tuý (Hêrôin), có khối lượng 0,75 (Không phẩy bảy mươi lăm) gam”.

Bản cáo trạng số 13/CT-VKS-HS ngày 21 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An đã truy tố Vi Văn B về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên Quyết định truy tố của Bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 để xử phạt bị cáo Vi Văn B mức án từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến gì tranh luận về điều khoản, tội danh mà Viện kiểm sát truy tố nhưng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến trình độ nhận thức pháp luật của bị cáo đang còn hạn chế, gia đình có hoàn cảnh khó khăn để lên mức hình phạt thấp nhất của khung hình phạt theo lời đề nghị của kiểm sát viên và miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Bị cáo Vi Văn B đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, không có ý kiến gì tranh luận với bản luận tội của Kiểm sát viên. Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Điều tra viên, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tương Dương, kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, đảm bảo trình tự thủ tục tố tụng đúng theo Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan, người tiến hành tố tụng.

[2] Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Vi Văn B đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai của người chứng kiến, phù hợp với biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang và các chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ. Vì vậy có đủ cơ sở để khẳng định: Vào 07 giờ ngày 29/11/2018, tại bản Vẽ, xã Yên Na, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An, Vi Văn B đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,75 gam Hêrôin nhằm mục đích để sử dụng. Khối lượng vật chứng thu được từ vụ án và hành vi của bị cáo đã thực hiện cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Như vậy Quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tương Dương đối với bị cáo về tội danh và điều khoản trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hậu quả của vụ án: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý và sử dụng các chất ma túy của Nhà nước. Xâm phạm đến trật tự xã hội, làm ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe của con người, là một trong những nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm. Bản thân bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự đã cố ý thực hiện tội phạm nghiêm trọng, tàng trữ trái phép ma túy nhằm thỏa mãn nhu cầu của bản thân, đây là một hành vi pháp luật cấm và xã hội lên án cho nên cần phải xử lí nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi cộng đồng xã hội một thời gian nhất định nhằm G dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo trước đây cũng đã bị xét xử về tội phạm cùng loại chưa đã được xóa án tích, lần phạm tội này của bị cáo không thuộc trường hợp tái phạm được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Điều đó thể hiện ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo rất kém, cần phải xét xử nghiêm.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Vi Văn B đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình gây ra nên Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự lên mức hình phạt thấp nhất tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo theo lời như lời đề nghị của kiểm sát viên và người bào chữa là thỏa đáng.

[6] Về hình phạt bổ sung: Kết quả xác minh tài sản của bị cáo chỉ đủ duy trì cuộc sống thiết yếu hàng ngày và không có tài sản nào được tạo lập từ việc phạm tội nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo như lời đề nghị của kiểm sát viên và người bào chữa là hoàn toàn phù hợp.

[7] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo. Do không biết tên tuổi, địa chỉ của người đàn ông này nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để làm rõ.

Đối với Chương Văn G là người đã dùng xe máy của mình chở Vi Văn B đi tìm mua Hêrôin. Do Chương Văn G không biết việc Vi Văn B tìm mua và tàng trữ Hêrôin, nên cơ quan Cảnh sát điều tra chỉ nhắc nhở, G dục là phù hợp.

[8] Về xử lý vật chứng: 0,75 gam Hêrôin thu giữ Vi Văn B (đã lấy 0,2 gam gửi giám định còn lại 0,55 gam) là vật Nhà nước cấm lưu hành cần tiêu hủy.

[9] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015;

- Tuyên bố bị cáo Vi Văn B phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo Vi Văn B.

- Xử phạt bị cáo Vi Văn B 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/11/2018.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm b, c khoản 1, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tiêu hủy vật chứng còn lại của vụ án Hêrôin (Đặc điểm và tình trạng vật chứng như trong biên bản giao nhận vật chứng số 33 lập ngày 21/01/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An).

- Về án phí:

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo Vi Văn B phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Vi Văn B có quyền kháng cáo bản án lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 26/02/2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2019/HS-ST ngày 26/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:12/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tương Dương - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:26/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về