Bản án 12/2019/HS-ST ngày 01/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÂM HÀ, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 12/2019/HS-ST NGÀY 01/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 01 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 06/2019/TLST-HS ngày 30 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2019/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 02 năm 2019 đối với các bị cáo:

- Bùi Doãn T; sinh năm: 1972; tại: Thái Bình; Nơi cư trú: Thôn L x, xã T, huyện D, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: thợ sơn; trình độ văn hoá: 7/10; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Doãn Đ, đã chết và bà Mai Thị M; có vợ là Lại Thị V và 03 người con, lớn nhất sinh năm 1999 và nhỏ nhất sinh năm 2009; tiền án, tiền sự: không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/11/2018. Hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Lâm Hà. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Ngô Văn M; sinh năm: 1993; tại: Thanh Hóa; Nơi cư trú: Thôn P, xã P, huyện L, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: làm nông; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Văn X và bà Đỗ Thị T; Gia đình bị cáo có 05 anh em, lớn nhất sinh năm 1982, nhỏ nhất sinh năm 1994; bị cáo là con thứ tư trong gia đình; tiền án, tiền sự: không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/11/2018. Hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Lâm Hà. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Lại Thị V, sinh năm: 1972. Nơi cư trú: Thôn L x, xã T, huyện D, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

Ông Ngô Văn X, sinh năm: 1960. Nơi cư trú: Thôn P, xã P, huyện L, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngô Văn M và Bùi Doãn T, quen biết nhau thông qua cùng đi uống thuốc cai nghiện ma túy Methadol ở Trung tâm y tế dự phòng tại Đà Lạt. Vào khoảng 08 giờ 00’ ngày 27/11/2018, T gọi điện cho M rủ nhau góp tiền chung để mua ma túy sử dụng thì M đồng ý và hẹn gặp nhau tại thị trấn N, huyện L. Sau đó, T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblale biển kiểm soát 17B1 – 380.71 đi từ Đà Lạt xuống thị trấn N còn M điều khiển xe mô tô hiệu Wave biển kiểm soát 49T8 – 8324 đi từ xã P, huyện L đến thị trấn N, huyện L. Khi M và T gặp nhau tại cổng ngân hàng Agribank thuộc thị trấn N, huyện L, T đưa cho M 500.000đồng, M cũng bỏ ra 500.000đồng góp lại để mua ma túy, M cầm số tiền 1.000.000đồng đi đến cổng chợ Thăng Long, thị trấn N thì gặp 01 người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) là người cùng đi uống thuốc Methadol, M nhờ người này đi mua ma túy, M đưa tiền cho người đàn ông và đứng chờ người này đi mua ma túy, được khoảng 05 phút thì người đàn ông quay lại đưa cho M 01 gói giấy bên trong có chứa ma túy. Sau đó, M quay lại gặp T và cùng nhau đi vào vườn cà phê thuộc tổ dân phố Đ x, thị trấn N, huyện L để sử dụng ma túy, khi chuẩn bị sử dụng thì bị lực lượng công an huyện L bắt quả tang và thu giữ toàn bộ tang vật.

Tang vật thu giữ: 01 gói ma túy; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblale biển kiểm soát 17B1 – 380.71; 01 xe mô tô hiệu Wave biển kiểm soát 49T8 – 8324; 01 điện thoại di động hiệu I phone 5 màu xám đen, 01 điện thoại di động hiệu Nokia 2610 màu đen. Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 17B1 – 380.71 cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả cho bà Lại Thị V là chủ sở hữu hợp pháp.

Tại bản kết luận giám định số 22/GĐ-PC09 ngày 29/11/2018 của phòng kỹ thuật công an tỉnh Lâm Đồng kết luật 01 gói ma túy có khối lượng 0,5847g, loại Herôin.

Tại bản cáo trạng số 17/CT-VKS-LH ngày 28/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà để xét xử các bị can về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng Viện kiểm sát truy tố, không khiếu nại hay thắc mắc gì về nội dung bản cáo trạng.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Bùi Doãn T và Ngô Văn M về tội:Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Bùi Doãn T, bị cáo Ngô Văn M mỗi bị cáo từ 12 đến 18 tháng tù. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 02 phong bì niêm phong ghi số 22/2018/PC09. Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại NOKIA 2610 màu đen, đã qua sử dụng; Hoàn trả cho bị cáo Ngô Văn M 01 điện thoại hiệu Iphone 5 màu xám đen, đã qua sử dụng; Đối với chiếc xe mô tô hiệu Wave biển kiểm soát 49T8 – 8324 của ông X mà bị cáo M sử dụng để đi mua ma túy, hiện nay ông X chưa chứng minh được nguồn gốc hợp pháp của chiếc xe trên nên giao cho cơ quan điều tra tiếp tục tạm giữ làm rõ xử lý sau.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lâm Hà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận: Vào ngày 27/11/2018, bị cáo T gọi điện cho bị cáo M rủ nhau góp chung tiền để mua ma túy sử dụng thì M đồng ý, sau khi góp tiền và mua được ma túy thì cả hai cùng nhau đi vào vườn cà phê thuộc tổ dân phố Đ x, thị trấn N, huyện L để sử dụng, khi chuẩn bị sử dụng thì bị lực lượng công an huyện L bắt quả tang cùng tang vật là 01 gói Hêrôin có khối lượng là 0,5847g.

Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nội dung bản cáo trạng, biên bản phạm tội quả tang, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, tang vật thu giữ cùng các tài liệu chứng cứ khác được phản ánh trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Bùi Doãn T và bị cáo Ngô Văn M phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xét tính chất vụ án nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo được thực hiện với lỗi cố ý, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của

Nhà nước về chất ma túy, đồng thời tác động xấu đến tình hình trật tự trị an và an toàn xã hội tại địa phương.

Ma túy là loại độc dược gây ra nhiều tác hại đối với người sử dụng và còn là nguyên nhân gây ra nhiều căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm khác, đồng thời cũng là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác trong xã hội. Chính vì vậy, Nhà nước ta nghiêm cấm mọi hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy, về hình phạt đối với tội phạm này cũng rất nghiêm khắc. Tuy nhiên, để thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân, các bị cáo đã không nghĩ đến tác hại của loại độc dược này đối với chính bản thân mà mua ma túy để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang.

Xét vai trò của các bị cáo trong vụ án: Bị cáo Bùi Doãn T là người rủ rê bị cáo Ngô Văn M mua ma túy. Bị cáo Ngô Văn M sau khi được rủ thì đã đồng ý cùng góp tiền với bị cáo T và cầm tiền trực tiếp đi mua ma túy, sau khi mua được ma túy thì cả hai cùng tìm nơi để sử dụng chung. Vì vậy, vai trò của các bị cáo trong vụ án là như nhau.

Xét nhân thân các bị cáo là người dân lao động chưa có tiền án, tiền sự. Các bị cáo thành khẩn khai báo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Các bị cáo đều là người nghiện ma túy và đã tự đi uống thuốc cai nghiện ma túy Methadol nhưng vẫn tiếp tục mua ma túy để sử dụng và tái nghiện. Các bị cáo nhận thức được việc làm của mình là vi phạm pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố tình mua ma túy tàng trữ để sử dụng. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo với mức hình phạt thật nghiêm khắc, cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian đủ để cải tạo giáo dục các bị cáo biết sống tuân thủ pháp luật, có thời gian từ bỏ ma túy để trở thành công dân lương thiện, sống có ích cho gia đình và xã hội. Đồng thời, đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblale biển kiểm soát 17B1 – 380.71 là tài sản của chị Lại Thị V và chiếc xe mô tô hiệu Wave biển kiểm soát 49T8 – 8324 là tài sản của ông Ngô Văn X khi bị cáo Bùi Doãn T và bị cáo Ngô Văn M sử dụng hai chiếc xe trên để đi mua ma túy thì chị V và ông X không biết, cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblale biển kiểm soát 17B1 – 380.71 cho chị V. Tại phiên tòa hôm nay chị V không có thắc mắc và yêu cầu gì nên không đặt ra để xem xét giải quyết. Đối với chiếc xe mô tô hiệu Wave biển kiểm soát 49T8 – 8324 là tài sản của ông X hiện nay ông X chưa chứng minh được nguồn gốc hợp pháp của chiếc xe trên nên giao cho cơ quan điều tra tiếp tục tạm giữ làm rõ xử lý sau.

Đối với người đàn ông đi mua ma túy cho các bị cáo chưa xác định được nhân thân, lai lịch, Cơ quan điều tra làm rõ xử lý sau.

[3] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, thì các bị cáo còn có thể bị phạt tiền, xét thấy các bị cáo là người nghiện ma túy, công việc không ổn định, các bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng và không hưởng lợi nên miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.

[4] Xử lý vật chứng: Vật chứng của vụ án cơ quan điều tra thu giữ bàn giao sang chi cục thi hành án gồm: 02 phong bì niêm phong ghi số 22/2018/PC09 đựng hêrôin Nhà nước cấm lưu hành tịch thu tiêu hủy; Đối với 01 điện thoại NOKIA 2610 màu đen bị cáo Thành sử dụng để liên lạc thực hiện hành vi phạm tội nên tuyên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước; Đối với chiếc điện thoại hiệu Iphone 5 màu xám đen, đã qua sử dụng không liên quan đến hành vi phạm tội nên tuyên trả cho bị cáo Ngô Văn Mạnh.

[5] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Bùi Doãn T, Ngô Văn M phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Bùi Doãn T 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/11/2018.

Xử phạt: Bị cáo Ngô Văn M 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/11/2018.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tuyên:

Tịch thu tiêu hủy: 02 phong bì niêm phong ghi số 22/2018/PC09.

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại NOKIA 2610 màu đen, đã qua sử dụng;

Hoàn trả cho bị cáo Ngô Văn M 01 điện thoại hiệu Iphone 5 màu xám đen, đã qua sử dụng. (Có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản lập ngày 29/01/2019)

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Buộc các bị cáo mỗi người phải nộp 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (01/3/2019) để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2019/HS-ST ngày 01/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:12/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lâm Hà - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về