TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 12/2019/HSPT NGÀY 09/01/2019 VỀ TỘI CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN
Ngày 09 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 433/2018/HSPT, ngày 18/12/2018 đối với bị cáo Lê Bá H về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 296/2018/HS-ST ngày 13/11/2018 của Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Lê Bá H (tên gọi khác: T), sinh năm 1994; tại tỉnh Bình Định; nơi cư trú: đường T, phường A, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Thợ mộc; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Bá T và bà Nguyễn Thị H; có vợ là Nguyễn Thị Bích V và 03 con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: không.
Ngày 06/7/2018 phạm tội “ Cố ý làm hư hỏng tài sản”. Ngày 01/8/2018 bị cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột khởi tố và áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).
* Người bị hại: Anh Lê Xuân T, sinh năm 1994; địa chỉ: thôn A, xã K, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lê Bá H và anh Nguyễn Văn Đ là bạn bè; trước đây, H cho anh Đ vay số tiền 3.000.000 đồng. Sáng ngày 05/7/2018, anh Đ gọi điện thoại nói với H cho Đ vay thêm số tiền 2.500.000 đồng thì Đ sẽ giao cho H 01 xe mô tô để H mang đi cầm cố lấy tiền trừ nợ thì H đồng ý. Do đang nợ tiền anh Lê Xuân T (trú tại thôn A, xã K, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, là tài xế lái taxi) nên Đ gọi điện thoại nhờ T điều khiển xe ô tô chở Đ đi đến địa chỉ đường D, phường C, thành phố B, để gặp H lấy tiền trả nợ cho T. Tại đây, H đưa cho Đ số tiền 2.500.000 đồng và Đ trả nợ cho T số tiền 1.500.000 đồng. Sau đó, Đ điều khiển 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen (chưa xác định được biển số) đi đến giao cho H mang đi cầm cố nhưng khi H hỏi nguồn gốc và giấy tờ xe thì Đ nói chiếc xe trên là xe của anh Đ nhưng đã bị mất hết giấy tờ rồi Đ đi về. Do nghi ngờ về nguồn gốc chiếc xe mô tô do anh Đ mang đến không có giấy tờ nên H đã giữ lại chiếc xe không mang đi cầm cố. Cùng ngày, anh Đ liên tục đến gặp H nói phải trả hết số tiền đã cầm cố xe nhưng H nói đang xác minh nguồn gốc khi nào xong mới đưa tiền thì Đ đòi H trả xe nhưng H không trả nên Đ lớn tiếng chửi bới H rồi bỏ về. Khoảng 02 giờ sáng ngày 06/7/2018, anh Lê Xuân T đang điều khiển xe ô tô taxi đi tìm đón khách tại khu vực phường T, thành phố B thì gặp Đ đang vẫy đón xe taxi nên T dừng xe để đón anh Đ. Lúc này Đ nói với T chở đến địa chỉ đường D, phường C, thành phố B để gặp H. Đến nơi, Đ xuống xe nhặt trên vỉa hè 01 gậy gỗ đập vào cổng nhà H nhưng không gây hư hỏng, thiệt hại. Khi nghe tiếng ồn ào, H mang theo 01 con dao (dài 47cm, cán bằng nhựa màu đen dài 19cm, lưỡi bằng kim loại dài 28cm, đầu nhọn) đi ra mở cổng thì giữa H và Đ có mâu thuẫn lời qua tiếng lại. H bực tức nhiều lần bị Đ quậy phá trước đó nên H cầm dao đuổi chém Đ thì Đ bỏ chạy. Do đuổi không kịp Đ nên H mang dao quay lại thì thấy anh T vẫn đậu xe trước nhà nên đi lại nói “Thằng này, mày chở nó đến phá nhà tao phải không?” thì anh T trả lời “Nó kêu tao chở thì tao chở thôi”. Sau đó, H đuổi anh T đi nhưng nghĩ anh T cố tình điều khiển xe đi chậm nên H bực tức nhặt 01 cục vữa xi măng hình bầu dục, kích thước khoảng 10x8x8cm ném vào xe ô tô làm vỡ, hư hỏng kính cản gió phía sau của xe taxi biển số 47A- 168.xx mà anh T điều khiển rồi H bỏ đi vào nhà. Khoảng 10 phút sau, anh T gọi về tổng đài rồi cùng một số người lái xe taxi hãng QT khác quay lại gặp H để nói chuyện. Lúc này, H cùng vợ là Nguyễn Thị Bích V đi ra thì hai bên xảy ra mâu thuẫn, chị V dùng tay tát 01 cái trúng vào mặt anh T nhưng không gây thương tích, còn H chạy vào nhà cầm con dao (trước đó đã dùng để đuổi chém Đ) ra đuổi chém anh T nhưng không trúng vào người. Thấy vậy, anh T bỏ chạy nên H quay lại dùng con dao này chém 01 cái trúng vào kính cản gió phía sau, đồng thời nhặt 01 cục gạch lát vỉa hè, bị vỡ không rõ hình dạng, kích thước khoảng 7x5x3cm, tiếp tục ném vào kính cản gió phía sau làm vỡ, hư hỏng kính cản gió phía sau của xe ô tô biển số 47A-168.xx. Sau đó, anh T đến cơ quan điều tra trình báo.
Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã thu giữ 01 con dao dài 47cm, cán bằng nhựa màu đen dài 19cm, lưỡi bằng kim loại dài 28cm và 01 xe ô tô biển số 47A-168.xx để phục vụ công tác điều tra. Đối với 01 cục vữa xi măng hình bầu dục, kích thước khoảng 10x8x8 cm và 01 cục gạch lát vỉa hè, bị vỡ không rõ hình dạng, kích thước khoảng 7x5x3 cm Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột không thu giữ được.
Tại bản Kết luận định giá tài sản số 145/KLĐG ngày 13/7/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột kết luận: Giá trị thay thế 01 kính chắn gió phía sau (kính lưng sau) của xe ô tô nhãn hiệu Toyota Vios E màu trắng, biển số 47A-168.xx, số máy: 2NRX074181, số khung: RL4B29F35G5004410 trị giá 11.674.410 đồng.
Quá trình điều tra, bà Nguyễn Thị H là mẹ đẻ của Lê Bá H đã thỏa thuận và tự nguyện bồi thường thiệt hại về tài sản cho anh Lê Xuân T số tiền 8.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền, anh T đã viết đơn bãi nại và không có yêu cầu bồi thường gì thêm.
Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả cho anh Lê Xuân T xe ô tô Toyota Vios E màu trắng, biển số 47A-168.xx.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 296/2018/HS-ST ngày 13-11-2018 của Toà Mán nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã quyết định:
Tuyên bố: Bị cáo Lê Bá H (T) phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”.
Căn cứ khoản 1 Điều 178; điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Lê Bá H 09 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 26/11/2018, bị cáo Lê Bá H kháng cáo xin được hưởng án treo.
Quá trình tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, hậu quả gây ra đối với hành vi phạm tội của bị cáo Lê Bá H và cho rằng Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo khoản 1 Điều 178 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ. Mức hình phạt 09 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là có phần nghiêm khắc so với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự - chấp nhận đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo Lê Bá H - sửa bản án sơ thẩm: Xử phạt bị cáo 06 tháng tù.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai của bị cáo Lê Bá H tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm cũng như các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 02 giờ sáng ngày 06/7/2018, tại trước số nhà đường D, phường C, thành phố B, bị cáo Lê Bá H đã dùng dao chém, dùng gạch, vữa xi măng ném hư hỏng 01 tấm kính cản gió phía sau của xe ô tô biển số 47A-168.xx của anh Lê Xuân T. Theo kết luận định giá tài sản số: 145/KLĐG ngày 13/7/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột kết luận: Giá trị thay thế 01 kính chắn gió phía sau (kính lưng sau) của xe ô tô nhãn hiệu Toyota Vios E màu trắng, biển số 47A-168.xx, số máy: 2NRX074181, số khung: RL4B29F35G5004410 trị giá 11.674.410 đồng. Như vậy, hành vi của bị cáo Lê Bá H đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Cố ý làm hư hỏng tài sản”. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Lê Bá H, Hội đồng xét xử xét thấy: Mức hình phạt 09 tháng tù bản án sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Khi quyết định hình phạt, bản án sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng như: Thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; gây thiệt hại không lớn, đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại và được gia đình bị hại làm đơn bãi nại – là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b, h, s, i khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Sau khi xét xử sơ thẩm và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới. Vì vậy, Hội đồng xét xử không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về phần hình phạt.
[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Về án phí phúc thẩm: Bị cáo Lê Bá H phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Bá H (T) về việc xin hưởng án treo – giữ nguyên bản án sơ thẩm về phần hình phạt.
[2] Áp dụng khoản 1 Điều 178; điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự
Xử phạt: Bị cáo Lê Bá H (T) 09 tháng tù về tội “ Cố ý làm hư hỏng tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Lê Bá H (T) phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 12/2019/HSPT ngày 09/01/2019 về tội cố ý làm hư hỏng tài sản
Số hiệu: | 12/2019/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/01/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về