Bản án 12/2018/HS-ST ngày 23/03/2018 về tội giao cấu với trẻ em

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 12/2018/HS-ST NGÀY 23/03/2018 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI TRẺ EM

Ngày 23 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 03/2018/HSST ngày 08 tháng 02 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn H - sinh năm 1983, tại tỉnh Cà Mau.

Nơi đăng ký thường trú: ấp TB, xã ĐT, huyện CN, tỉnh Cà Mau; chổ ở hiện nay: ấp BB, xã HT, huyện TB, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: làm mướn; trình độ văn hóa (học vấn): 02/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Thắng (chết) và bà Lại Thị Hà (chết); có vợ là Nguyễn Thị O và 03 người con; tiền án không, tiền sự: không; bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 18-11-2017, tạm giam ngày 27-11-2017. ( có mặt)

Người bị hại: Nguyễn Thanh T – sinh ngày 11-5-2004.

Nơi đăng ký thường trú: ấp TL, xã AM, huyện KS, tỉnh Sóc Trăng; chỗ ở hiện nay: ấp BB, xã HT, huyện TB, tỉnh Tây Ninh.(có mặt)

Người đại diện hợp pháp của bị hại: ông Nguyễn Bữu H, sinh năm 1974 (cha bị hại); trú tại khu phố Cây Da, phường Thạnh Phước, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương và bà Phạm Thị D – sinh năm 1980 (mẹ của bị hại); Nơi đăng ký thường trú: ấp TL, xã AM, huyện KS, tỉnh Sóc Trăng; chỗ ở hiện nay: ấp BB, xã HT, huyện TB, tỉnh Tây Ninh. Ông H ủy quyền cho bà D đại diện hợp pháp cho bị hại theo văn bản ngày 18-11-2017. (có mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: bà Nguyễn Thị O - sinh năm 1980; Nơi đăng ký thường trú: ấp Bình Thành, xã Trần Thế, huyện CN, tỉnh Cà Mau; chỗ ở hiện nay: ấp Đất Đỏ, xã An Lập, huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương.( có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội D vụ án được tóm tắt như sau: Nguyễn Văn H và Nguyễn Thanh T (Phạm Thanh T), sinh ngày 11-5-2004, nơi cư trú: ấp TL, xã AM, huyện KS, tỉnh Sóc Trăng, cùng làm công nhân tại lò gạch Thiên Phúc thuộc ấp BB, xã HT, huyện TB, tỉnh Tây Ninh nên quen biết với nhau. Trong quá trình làm việc tại đây, T quen biết và có tình cảm yêu thương với Lê Văn K, sinh năm 1999 cùng làm công nhân lò gạch chung. Nhưng bà Phạm Thị D là mẹ ruột của T không cho T quen với K nên T và K nhờ Nguyễn Văn H chở T đi tìm việc làm ở nơi khác thì H đồng ý.

Khoảng 19 giờ ngày 16/11/2017, H điều khiển xe mô tô biển số 60L6-9945 chở T đến huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh để tìm việc làm. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, H chở T vào nhà nghỉ Hoa Dầu thuộc khu phố 1, thị trấn Châu Thành, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh để thuê phòng nghỉ qua đêm. Đến khoảng 01 giờ ngày 17/11/2017, H đã thực hiện hành vi giao cấu với T một lần. Sáng cùng ngày, gia đình T đi tìm gặp T ở thị trấn Châu Thành. Sau đó Nguyễn Văn H đến Công an huyện Châu Thành đầu thú và khai rõ toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Trong quá trình điều tra, T còn khai nhận ngoài một lần H thực hiện hành vi giao cấu với T thì trước đó Lê Văn K cũng thực hiện hành vi giao cấu với T hai lần tại phòng trọ của lò gạch Thiên Phúc. Qua làm việc, K không thừa nH hành vi giao cấu với T.

Tại bản kết luận giám định pháp y về tình dục số 74/2017/TD ngày 17/11/2017 của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế tỉnh Tây Ninh kết luận: Phạm Thanh T màng trinh rách cũ vị trí 3 giờ, 6 giờ. Hiện tại không phát hiện có thai.

Tại Kết luận giám định pháp y về độ tuổi số 3942/C54B ngày 24/11/2017 của Phân viện Khoa học hình sự- Bộ Công an tại thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tại thời điểm giám định (tháng 11/2017) Nguyễn Thanh T có độ tuổi từ 13 năm 06 tháng đến 14 năm.

Kết luận giám định số 3962/C54B ngày 05/01/2018 của Phân viện Khoa học hình sự- Bộ Công an tại thành phố Hồ Chí Minh kết luận: trong mẫu dịch âm đạo của Nguyễn Thanh T và trên tấm trải nệm đều có tinh trùng người. Kiểu gen của mẫu tinh trùng trong dịch âm đạo trùng với kiểu gen của Nguyễn Văn H, kiểu gen của mẫu tinh trùng trên tấm trải nệm là của một người khác, không trùng với kiểu gen của Nguyễn Văn H; không phân tích được kiểu gen từ mẫu lông, tóc đã thu do lượng mẫu kém.

Tại bản cáo trạng số: 04/QĐ-KSĐT ngày 06 tháng 2 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo khoản 1 Điều 145 Bộ luật hình sự. Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành trong phần tranh luận đã giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh trên đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 145; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 01 đến 02 năm tù.

Đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo bồi thường cho người bị hại và xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội D vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: ông Nguyễn Bữu H là cha của bị hại Nguyễn Thanh T ủy quyền cho mẹ bị hại là bà Phạm Thị D làm người đại diện hợp pháp cho bị hại nên Tòa án xét xử vụ án theo quy định pháp luật.

[2] Trong quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Văn H đã khai nH toàn bộ hành vi phạm tội của mình theo đúng nội D bản Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố. Xét lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản về việc người phạm tội ra đầu thú, biên bản khám nghiệm hiện trường, kết luận giám định pháp y cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”, tội phạm hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 145 Bộ luật hình sự.

Vụ án mang tính chất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo H là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm vào sự phát triển bình thường về thể chất, tâm sinh lý của người chưa thành niên được pháp luật hình sự bảo vệ. Bị cáo H nH thức được bị hại là người dưới 16 tuổi nhưng lại quan hệ tình dục với bị hại nên cần thiết xử phạt bị cáo H mức án tương xứng, cách ly khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân tốt, nhằm đạt được mục đích giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải; quá trình phạm tội ra đầu thú; bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tại phiên tòa, gia đình bị cáo H đã khắc phục một phần hậu quả. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự sẽ được Hội đồng xét xử xem xét khi áp dụng hình phạt đối bị cáo.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về các biện pháp tư pháp: Tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại thỏa thuận được với nhau về việc bồi thường thiệt hại như sau: Bị cáo tự nguyện bồi thường cho bị hại số tiền 15.000.000 (mười lăm triệu) đồng như yêu cầu, tại phiên tòa đã bồi thường cho bị hại số tiền 7.000.000 (bảy triệu) đồng, còn phải tiếp tục bồi thường cho bị hại số tiền còn lại là 8.000.000 (tám triệu) đồng. Xét thấy sự thỏa thuận của bị cáo, bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại là hoàn toàn tự nguyện và không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội nên ghi nH.

[5] Về vật chứng: 01 xe mô tô nhãn hiệu Dream màu nâu, biển số 60L6-9945; 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xám- đen, đã qua sử dụng, số Imei: 355930043142511; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 60L6-9945; 01 ví da màu nâu có chữ BRBERRY. Đây là các vật chứng không liên quan việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo, nhưng được tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Xe mô tô nhãn hiệu Dream màu nâu, biển số 60L6-9945 là tài sản chung của bà O và bị cáo H, bà O xin được nhận lại xe nhưng đồng ý tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

[6] Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 750.000 (bảy trăm năm mươi nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a, f khoản 1 Điều 23 Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Riêng đối với lời khai của bị hại về hành vi của Lê Văn K, do xảy ra trên địa bàn huyện TB, tỉnh Tây Ninh nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành đã chuyển tin báo đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TB, tỉnh Tây Ninh giải quyết theo thẩm quyền.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 145; điểm s khoản 1, 2  Điều 51 Bộ luật hình sự;

Căn cứ điểm a, f khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1.  Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn H 01(một) năm tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 18/11/2017.

2.  Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 592 Bộ luật dân sự:

Ghi nH bị cáo H tự nguyện bồi thường cho bị hại số tiền 15.000.000 (mười lăm triệu) đồng như bên bị hại yêu cầu. Bị cáo H đã bồi thường số tiền 7.000.000 (bảy triệu) đồng, bị cáo còn phải tiếp tục bồi thường cho bị hại số tiền còn lại là 8.000.000 (tám triệu) đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu tiền lãi suất của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Về vật chứng: Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn H 01 xe mô tô nhãn hiệu Dream màu nâu, biển số 60L6-9945; 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xám- đen, đã qua sử dụng, số Imei: 355930043142511; 01 giấy chứng nH đăng ký xe mô tô biển số 60L6-9945; 01 ví da màu nâu có chữ BRBERRY, nhưng được tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

3. Về án phí: Bị cáo H phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và 750.000 (bảy trăm năm mươi nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại được quyền kháng cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền, nghĩa vụ của mình lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

697
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2018/HS-ST ngày 23/03/2018 về tội giao cấu với trẻ em

Số hiệu:12/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:23/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về