Bản án 12/2018/HSST ngày 19/04/2018 về tội cố ý làm hư hỏng tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 12/2018/HSST NGÀY 19/04/2018 VỀ TỘI CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 12/2018/TLST- HS ngày 16 tháng 3 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2018/QDXXST-HS ngày 06 tháng 4 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Tấn P, sinh năm 1989, tại tỉnh Đồng Tháp; Nơi cư trú: ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Đồng Tháp; Nghề nghiệp: làm thuê; Trình độ học vấn: 6/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; con ông Lê Hoàng V, sinh năm 1969 và bà Bạch Thị H, sinh năm 1971, cùng ngụ: ấp P, xã P, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp; Vợ, con: chưa có; Anh chị em ruột có 2 người, bị cáo là người thứ nhất; Tiền sự: Không; Tiền án: ngày 09/4/2013 bị Toà án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích (chưa xoá án tích); Nhân thân: Năm 2009 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội Hủy hoại tài sản; Bị cáo Bị bắt truy nã ngày 07/01/2018, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp. (có mặt)

- Bị hại: Ông Trần Quốc H, sinh năm 1976, cư trú: ấp T, xã T, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp. (có mặt)

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Lê Hoàng V, sinh năm: 1969, địa chỉ: ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Đồng Tháp. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 18 giờ ngày 15/01/2015, Lê Tấn P đến nhà anh Phạm Thanh S, sinh năm 1985, ngụ ấp An Phú, xã An Nhơn, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp nhậu cùng với Võ Hoàng A, sinh năm 1989, Nguyễn Hoàng Minh Tâm, sinh năm 1997 và vài người nữa chưa rõ họ tên, đến 23 giờ cùng ngày thì nghỉ. Lúc này, P điện thoại cho bạn của P là Nguyễn Thanh N, sinh năm 1989, ngụ ấp, xã, huyện C, tỉnh Đồng Tháp hỏi mượn 200.000 đồng, nhưng N không có tiền để cho mượn. Do bực tức vì không mượn được tiền và biết N đang làm thuê tại vựa trái cây “Chín Tâm” thuộc ấp Tân Thạnh, xã An Nhơn, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp do ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1958 làm chủ nên P nhặt một khúc cây dài khoảng 50cm, đường kính khoảng 05cm giấu trong áo khoát với mục đích tìm đánh N. Sau đó, P nhờ Nguyễn Hoàng Minh T chở P đến vựa trái cây “Chín Tâm” để tìm N. Khi nhờ, P nói với T là chở P đến Cầu Cái Xếp tìm bạn. Khi đến cầu Cái Xếp, P bảo T đậu xe đợi còn P đến vựa trái cây “Chín Tâm” tìm N nhưng không gặp nên dùng cây mang theo đập vào kính chắn gió và đầu xe ô tô tải biển số 66S- 2452 của anh Trần Quốc H đang đậu gần vựa trái cây làm bể kính và hư hỏng đầu xe rồi tiếp tục đập vào 05 rỗ nhãn của ông T. Trên đường đến cầu Cái Xếp cho T chở về, P đã ném bỏ cây nên không thu hồi được.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 08/KLĐG-HĐ ngày 13/2/2015, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Châu Thành định giá và kết luận: xe ô tô tải biển số 66S-2451 của Trần Quốc H bị thiệt hại 2.660.000 đồng. Đối với 05 rỗ nhãn của ông Nguyễn Văn T bị P đập phá, do tài sản bị thiệt hại không lớn, ông Tâm không rõ bị thiệt hại bao nhiêu và không yêu cầu bồi thường nên không có cơ sở định giá.

Sau khi bị khởi tố, Lê Tấn P đã bỏ trốn đến tỉnh Đồng Nai và tỉnh Bình Dương làm thuê. Đến ngày 07/01/2018, P bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp bắt truy nã khi đang lẫn trốn tại thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Ông Trần Quốc H yêu cầu Lê Tấn P bồi thường 2.660.000đ. Ông V cha bị cáo đã nộp 2.660.000đ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành để bồi thường cho ông H.

Tại bản cáo trạng 12/CT-VKS-CT ngày 12/3/2018, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành đã truy tố bị cáo Lê Tấn P về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo khoản 1 Điều 143 của Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa,

- Đại diện Viện Kiểm sát Nhân dân huyện Châu Thành trong phần tranh luận đã thay đổi cáo trạng về áp dụng pháp luật, truy tố và đề nghị: Áp dụng khoản 1 Điều 178; điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ Luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Lê Tấn P về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” với mức án từ 18 đến 24 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc Lê Tấn P bồi thường cho ông Trần Quốc H số tiền là 2.660.000đ.

Về xử lý tang vật: không.

- Bị hại ông Trần Quốc H xác nhận sự việc như Bản cáo trạng nêu, yêu cầu bị cáo bồi thường 2.660.000 đồng.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: ông Lê Hoàng V là cha của bị cáo xác nhận, có nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành số tiền 2.660.000 đồng để bồi thường cho ông H, thay bị cáo và không yêu cầu bị cáo

trả lại cho ông.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Tại phiên toà bị cáo Lê Tấn P khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời trình bày của người bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong hồ sơ vụ án. Qua đó xác định: Khoảng 23 giờ ngày 15/01/2015, sau khi uống rượu, điện thoại mượn tiền của Nguyễn Thanh N không được, Lê Tấn P nhặt 01 khúc cây dài 50cm, đường kính 05cm nhờ Nguyễn Hoàng M chở bằng xe môtô đến vựa trái cây “Chín Tâm” thuộc ấp An Phú, xã An Nhơn, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp để tìm đánh N. Sau khi đến vựa trái cấy “Chín Tâm” tìm không gặp N, Lê Tấn P đã dùng cây mang theo đập vào kính chắn gió và đầu xe ô tô tải biển số 66S-2452 của ông Trần Quốc H đang đậu gần vựa trái cây làm bể kính và hư hỏng đầu xe với trị giá tài sản bị thiệt hại là 2.660.000đ.

Hành vi của bị cáo dùng cây đập vào xe, gây thiệt hại về tài sản của ông H là xâm phạm trực tiếp đến tài sản hợp pháp của người khác, bị cáo trưởng thành, có đầy đủ năng lực, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng bị báo vẫn cố ý thực hiện, nên bị cáo có lỗi cố ý trực tiếp. Do đó, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”.

Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội trước ngày Bộ Luật Hình sự năm 2015 có hiệu lực. Tuy nhiên, tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” được quy định tại Điều 143

Bộ Luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 có mức hình phạt cao nhất là tù chung thân, so với quy định về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” tại Điều 178 Bộ Luật Hình sự năm 2015 có mức hình phạt cao nhất là 20 năm thì áp dụng quy định của Bộ Luật Hình sự năm 2015 có lợi cho bị cáo. Do đó, đại diện Viện kiểm sát nhân huyện Châu Thành tại phiên tòa đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 178 Bộ Luật Hình sự năm 2015 truy tố bị cáo tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” là đúng quy định Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ Luật Hình sự năm 2015.

 [2] Bị cáo nhận tội, không tranh luận, không bào chữa, xin được giảm nhẹ hình phạt. P biểu luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa đúng tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo. Hội đồng xét xử nhận thấy, bị cáo đã nhiều lần phạm tội và chấp hành hình phạt tù, nhưng sau thời gian cách ly xã hội, để cải tạo bị cáo vẫn chưa có được nhận thức đúng đắn, chưa có ý thức chấp hành pháp luật, bị cáo vô

cớ đập phá tài sản, làm hư hỏng gây thiệt hại về tài sản của người khác. Do đó, dù thiệt hại về tài sản không lớn, nhưng Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian, để bị cáo được giáo dục, cải tạo để trở thành công dân tốt, có ý thức chấp hành pháp luật.

 [3] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng tránh nhiệm hình sự: Bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s điều 51 Bộ Luật Hình sự năm 2015 là “Tự nguyện bồi thường thiệt hại”, “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”. Bị cáo có các tình tiết tăng nặng quy định tại điểm d, h Điều 52 Bộ Luật Hình sự năm 2015 là “Phạm tội có tính chất côn đồ” và „Tái phạm”.

Trong quá trình xem xét áp dụng hình phạt đối với bị cáo Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự nêu trên đối với bị cáo để có một mức án phù hợp, nhằm giúp bị cáo cải tạo tốt và có tác dụng phòng ngừa tội phạm nói chung.

 [4] Về trách nhiệm dân sự: Hội đồng xét xử thống nhất buộc bị cáo P phải bồi thường số tiền 2.660.000 đồng cho bị hại.

 [5] Về xử lý tang vật: không.

 [6] Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm; về án phí dân sự sơ thẩm do cha bị cáo tự nguyện nộp tiền bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo trước khi mở phiên tòa, nên căn cứ quy định tại điểm g Điều 21 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án bị cáo không phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Lê Tấn P phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”.

Áp dụng: khoản 1 Điều 178 Bộ Luật Hình sự năm 2015; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm d, h khoản 1 Điều 52 Bộ Luật Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ Luật Hình sự năm 2015;

- Xử phạt bị cáo Lê Tấn P mức án 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07 tháng 01 năm 2018.

- Về trách nhiệm dân sự: áp dụng Điều 48 Bộ Luật Hình sự năm 2015; Điều 589 Bộ Luật Dân sự năm 2015;

Bị cáo Lê Tấn P bồi thường cho ông Trần Quốc H số tiền 2.660.000đ (hai triệu sáu trăm sáu mươi ngàn đồng) (Ông Lê Hoàng Vĩnh đã nộp thay cho bị cáo 2.660.000 đồng theo biên lai số 013091 ngày 22/3/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành).

- Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Lê Tấn P nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm; Bị cáo không phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo lên Tòa án Nhân dân Tỉnh Đồng Tháp./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

645
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2018/HSST ngày 19/04/2018 về tội cố ý làm hư hỏng tài sản

Số hiệu:12/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:19/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về