Bản án 12/2018/HS-ST ngày 08/02/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 12/2018/HS-ST NGÀY 08/02/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 02 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 02/2018/TLST-HS ngày 16 tháng 01 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2018/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Đăng N sinh năm 1966 tại xã K, huyện, thành phố Hải Phòng; Nơi cư trú: Thôn 1, xã K, huyện T, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 02/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đăng Đ và bà Phạm Thị T; có vợ Phạm Thị Y và 02 con; tiền án: Bản án số 164 ngày 08 tháng 5 năm 1998 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử 07 năm tù về tội Cố ý gây thương tích và 11 năm tù về tội Cướp tài sản của công dân, tổng hợp thành 18 năm tù, chấp hành xong hình phạt tù ngày 13 tháng 7 năm 2013; tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 23 tháng 8 năm 2017 đến ngày 29 tháng 8 năm 2017 chuyển tạm giam; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 10 phút ngày 23 tháng 8 năm 2017, Tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Thủy Nguyên kết hợp với Ban Phòng chống tội phạm ma túy Bộ Tư lệnh Cảnh sát Biển vùng 1 làm nhiệm vụ tại khu vực thôn 1, xã K, huyện T, thành phố Hải Phòng đã phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Đăng N có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Đỗ Văn T, sinh năm 1982, trú tại xã K, huyện T, thành phố Hải Phòng và Đào Văn Đ, sinh năm 1987, trú tại xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng. Thu của T 02 gói giấy nhỏ (loại giấy lịch treo tường) bên trong chứa chất bột màu trắng nghi là chất ma túy, thu của N 200.000 đồng. Tổ công tác đã đưa N, T, Đ cùng vật chứng về trụ sở Công an xã Kiền Bái lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Đăng N, Công an thu giữ 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long bằng kim loại bên trong đựng 09 gói giấy nhỏ (02 gói bằng giấy lịch treo tường, 07 gói bằng giấy bạc) trong chứa chất bột màu trắng nghi là chất ma túy, 01 dao lam và 01 bật lửa ga.

Tại Cơ quan điều tra Nguyễn Đăng N khai: Do nghiện ma túy nên N thường mua ma túy về sử dụng cho bản thân và bán lại cho những người khác để kiếm lời. Khoảng 04 giờ ngày 22 tháng 8 năm 2017, N đến khu vực đường tàu nội thành Hải Phòng mua của một người không quen biết 01 gói Heroine với giá 900.000 đồng. N mang ma túy về nhà, chia nhỏ thành 15 gói Heroine, trong đó có 08 gói Heroine gói bọc ngoài bằng giấy bạc, N bán với giá 150.000 đồng/gói và 07 gói Heroine bọc ngoài bằng giấy lịch N bán với giá 100.000 đồng/gói. N sử dụng hết 01 gói Heroine (bằng giấy bạc), còn lại 14 gói ma túy N cất trong vỏ hộp thuốc lá Thăng Long bằng kim loại. N đã bán ma túy cho nhiều người tại nơi ở của mình cụ thể như sau: Lần thứ nhất: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 22 tháng 8 năm 2017 bán cho Đỗ Văn T, Đinh Văn L, sinh năm 1995 và Cù Thanh X, sinh năm 1988, đều trú tại xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng 02 gói Heroine với giá 200.000 đồng. Lần thứ hai: Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 22 tháng 8 năm 2017 bán cho Đỗ Văn T và Nguyễn Hữu T, sinh năm 1988, trú tại xã, huyện T, thành phố Hải Phòng 01 gói Heroine với giá 100.000 đồng. Lần thứ ba: Khoảng 09 giờ ngày 23 tháng 8 năm2017 khi đang bán cho Đỗ Văn T và Đào Văn Đ 02 gói Heroine với giá 200.000 đồng thì bị Công an bắt quả tang cùng vật chứng. Đỗ Văn T, Đào Văn Đ, Đinh Văn L, Cù Thanh X và Nguyễn Hữu T là khai phù hợp với lời khai của Nguyễn Đăng N như nội dung trên.

Tại phiên tòa bị cáo N thừa nhận bán ma túy cho Đỗ Văn T, Đào Văn Đ, Đinh Văn L, Cù Thanh X và Nguyễn Hữu T vào các thời gian như đã nêu trên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Tại bản Kết luận giám định số 985/KLGĐ ngày 25 tháng 8 năm 2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Chất bột màu trắng thu của T là ma túy có trọng lượng 0,0424 gam, là loại Heroine; chất bột màu trắng thu giữ khi khám xét nơi ở của Nguyễn Đăng N là ma túy có trọng lượng 0,8295 gam, là loại Heroine.

Vật chứng của vụ án gồm: 01 phong bì chứa chất ma túy còn lại sau giám định, 01 dao lam, 01 bật lửa ga và 200.000 đồng.

Ông Kiểm sát viên và bị cáo đồng ý với nội dung kết quả của Kết luận giám định số 985, không có ý kiến hay khiếu nại gì.

Bản Cáo trạng số 16/2018/CT-VKS ngày 15 tháng 01 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên truy tố bị cáo Nguyễn Đăng N về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm b, p khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 (BLHS năm 1999). Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng điểm b, p khoản 2 Điều 194 của BLHS năm 1999, Điều 38 và điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (BLHS năm 2015) xử phạt bị cáo N từ 10 năm đến 11 năm tù; không phạt tiền bị cáo; về vật chứng của vụ án đề nghị áp dụng Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 47 của BLHS năm 201 tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong chứa chất ma túy còn lại sau giám định, 01 dao lam và 01 bật lửa ga, tịch thu của bị cáo N 200.000 đồng để nộp sung quỹ Nhà nước, truy thu của bị cáo N số tiền 300.000 đồng để nộp sung quỹ Nhà nước.

Lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử nghỉ nghị án, bị cáo trình bày nhận thức rõ hành vi phạm tội, hậu quả của tội phạm đã thực hiện và mong muốn được sự khoan hồng của pháp luật, được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thủy Nguyên và Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội: Tinh thể màu trắng bị cáo Nguyễn Đăng N bán cho T là Heroine có trọng lượng 0,0424 gam, ngoài ra bị các còn cất giữ 0,8295 gam Heroine với mục đích để bán. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi bán trái phép chất ma túy của bị cáo đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy. Căn cứ vào lời khai của những người liên quan xác định được bị cáo đã bán ma túy cho Đỗ Văn T, Đinh Văn L và Cù Thanh X vào hồi 10 giờ 30 phút ngày 22 tháng 8 năm 2017, bán cho Đỗ Văn T và Nguyễn Hữu T vào hồi 18 giờ 30 phút ngày 22 tháng 8 năm 2017, bán cho Đỗ Văn T và Đào Văn Đ vào hồi 09 giờ ngày 23 tháng 8 năm 2017 nên bị cáo đã phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy với tình tiết định khung là phạm tội nhiều lần; năm 1998 bị cáo bị kết án về tội rất nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích, nay lại phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý nên bị cáo phải chịu thêm tình tiết định khung là tái phạm nguy hiểm; Tội phạm và hình phạt đối với bị cáo được quy định tại điểm b, p khoản 2 Điều 194 của BLHS năm 1999. Các chứng cứ xác định bị cáo không có tội bị loại trừ.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm, vi phạm các chính sách pháp luật về phòng chống ma túy, tác động xấu đến kinh tế, xã hội, an ninh trật tự, đạo đức, lối sống, văn hóa, hạnh phúc gia đình và sức khỏe của người khác. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng; bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS năm 2015.

[4] Về hình phạt: Với phân tích trên, cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn và xử phạt bị cáo với mức án trên mức khởi điểm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp. Tại khoản 5 Điều 194 của BLHS năm 1999 quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền, nhưng bị cáo không có tài sản riêng, không có khả năng thi hành nên không phạt tiền bị cáo.

[5] Về vật chứng, xử lý vật chứng: 01 phong bì chứa chất ma túy còn lại sau giám định, 01 dao lam và 01 bật lửa ga là vật chứng của vụ án, không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy; số tiền 200.000 đồng bị cáo bán ma túy cho T và Đ ngày 23 tháng 8 năm 2017 cần tịch thu nộp sung quỹ Nhà nước; số tiền 200.000 đồng bị cáo bán ma túy cho T, L và X ngày 22 tháng 8 năm 2017 và số tiền 100.000 đồng bị cáo bán ma túy cho T và T ngày 22 tháng 8 năm 2017 là tiền do thu lợi bất chính mà có, cần truy thu để nộp sung quỹ Nhà nước.

[6] Về những vấn đề khác: Vụ án này không có dấu hiệu của việc bỏ lọt tội phạm hoặc hành vi phạm tội mới nên Hội đồng xét xử không phân tích chứng cứ để xem xét việc khởi tố vụ án hay yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự. Đối với Đỗ Văn T, Đào Văn Đ, Đinh Văn L, Cù Thanh X và Nguyễn Hữu T là những người mua ma túy của N để sử dụng cho bản thân; do lượng ma túy không đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự và không thu giữ được ma túy của L, X, T nên Công an huyện Thủy Nguyên đã xử lý hành chính là phù hợp pháp luật. Đối tượng bán ma túy cho N, quá trình điều tra không xác định được căn cước, lai lịch địa chỉ nên không có cơ sở để điều tra là phù hợp pháp luật. Về án phí, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Về quyền kháng cáo, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b, p khoản 2 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 tuyên bố bị cáo Nguyễn Đăng N phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy; xử phạt bị cáo Nguyễn Đăng N 10 (Mười) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ là ngày 23 tháng 8 năm 2017.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong chứa chất ma túy còn lại sau giám định, 01 dao lam và 01 bật lửa ga đã qua sử dụng; tịch thu của bị cáo Nguyễn Đăng N số tiền 200.000 (Hai trăm nghìn đồng) để nộp sung quỹ Nhà nước (Chi tiết tại Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 04 tháng 01 năm 2018 và Biên lai thu tiền số 0000735 ngày 04 tháng 01 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên); truy thu của bị cáo Nguyễn Đăng N số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn đồng) để nộp sung quỹ Nhà nước.

Về lãi suất chậm thi hành án đối với khoản tiền bị truy thu: Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành án xong, thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm thi hành án.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án; Bị cáo Nguyễn Đăng N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án và người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

439
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2018/HS-ST ngày 08/02/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:12/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về