TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÙ LAO DUNG, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 12/2018/HNGĐ-ST NGÀY 19/11/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 19 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số: 126/2018/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 9 năm 2018 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 10 năm 2018, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Nguyễn Thùy L, sinh năm: 1988.
Cư trú tại: ấp V, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng “Có mặt”.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn Nguyễn Thùy L: Ông Lưu Trí D – Luật sư Văn phòng luật sư Nhựt V thuộc Đoàn luật sư tỉnh Sóc Trăng “Có mặt”.
2. Bị đơn: Huỳnh D, sinh năm: 1981.
Cư trú tại: ấp V, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng “Vắng mặt”.
Địa chỉ tạm trú: Ấp N, xã L, huyện L, tỉnh Sóc Trăng.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 11 tháng 9 năm 2018, Biên bản lấy lời khai ngày 12 tháng 10 năm 2018 và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn là chị Nguyễn Thùy L trình bày:
Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thùy L và anh Huỳnh D tự nguyện kết hôn vào năm 2004, nhưng đến ngày 26/8/2009 mới đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật và được Ủy ban nhân dân xã A cấp giấy chứng nhận kết hôn. Sau thời gian chung sống hạnh phúc đến tháng 01/2014 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng ý kiến trong cuộc sống, thường xuyên cãi vả nhau, chị L và anh D sống ly thân từ tháng 02/2014 cho đến nay. Nay chị L xét thấy tình cảm vợ chồng giữa chị và anh D không còn, nên chị L yêu cầu ly hôn với anh D.
Về con chung: Trong thời gian chung sống chị L và anh D có 03 người con chung tên là Huỳnh S, sinh ngày 08/10/2004, Huỳnh Văn T, sinh ngày 22/3/2009 và Huỳnh Văn Kh, sinh ngày 02/12/2012. Hiện nay, Kh với T đang sống chung với chị L, Huỳnh S thì sống với anh D. Nếu ly hôn, chị L có nguyện vọng nuôi con là Huỳnh Văn T, sinh ngày 22/3/2009 và Huỳnh Văn Kh, sinh ngày 02/12/2012 cho đến khi thành niên, không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con chung. Đồng thời, chị L cũng yêu cầu giao con chung giữa chị L và anh D là Huỳnh S, sinh ngày 08/10/2004 cho anh D nuôi dưỡng đến khi thành niên, chị Lẽ không phải cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Không có, nên chị L không có yêu cầu gì. Tại biên bản lấy lời khai ngày 22/10/ 2018 của Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung bị đơn là anh Huỳnh D trình bày: Anh D không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị L vì anh còn thương vợ; Về con chung: Anh D thống nhất giao con chung giữa anh D và chị L là Huỳnh Văn T, sinh ngày 22/3/2009 và Huỳnh Văn Kh, sinh ngày 02/12/2012 cho chị L nuôi dưỡng đến khi thành niên, anh sẽ không cấp dưỡng nuôi con. Đồng thời, anh D cũng thống nhất nuôi con chung giữa anh và chị L là Huỳnh S, sinh ngày 08/10/2004 cho đến khi thành niên, anh không yêu cầu chị L phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung: Không có, nên anh D không yêu cầu gì.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn Nguyễn Thùy L trình bày:
Về hôn nhân: Anh Huỳnh D và chị Nguyễn Thùy L kết hôn với nhau vào năm 2004, nhưng đến ngày 26/8/2009 mới đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật và được Ủy ban nhân dân xã A cấp giấy chứng nhận kết hôn. Sau thời gian chung sống hạnh phúc, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng ý kiến trong cuộc sống, tình cảm vợ chồng không còn hạnh phúc. Hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Từ tháng 02/2014, hai bên đã sống ly thân. Từ khi ly thân cho đến nay anh chị không có gặp nhau để bàn bạc về việc hôn nhân của anh chị nhằm tạo điều kiện chung sống lại với nhau. Tại phiên tòa hôm nay, chị L yêu cầu được ly hôn với anh D là hoàn toàn có căn cứ, nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu của chị L, xử cho chị L được ly hôn với anh D; Về con chung: Từ khi anh D và chị L sống ly thân thì cháu S sống chung với anh D. Cháu T và cháu Kh sống chung với chị L, giữa anh D và chị L cũng đã thống nhất thỏa thuận việc nuôi con, nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình xử giao cháu S cho anh D nuôi dưỡng đến khi thành niên, xử giao cháu T và cháu Kh cho chị L nuôi dưỡng đến khi thành niên; Về tài sản chung và nợ chung: Không có, nên không có đề nghị gì.
Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cù Lao Dung phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Trong vụ án này Thẩm phán, Hội đồng xét xử, nguyên đơn, người tham gia tố tụng khác đã chấp hành đúng theo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Riêng đối với bị đơn không chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung: Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình, xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là xử cho nguyên đơn được ly hôn với bị đơn, xử giao cháu Huỳnh Văn T, sinh ngày 22/3/2009 và Huỳnh Văn Kh, sinh ngày 02/12/2012 cho chị L nuôi dưỡng; Giao cháu Huỳnh S, sinh ngày 08/10/2004 cho anh D nuôi dưỡng; Về tài sản chung và nợ chung, không có đề nghị gì.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng. Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Anh Huỳnh D là bị đơn trong vụ án, anh D đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt anh D.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Về hôn nhân: Hôn nhân giữa chị Nguyễn Thùy L và anh Huỳnh D là hôn nhân hợp pháp. Sau thời gian chung sống hạnh phúc, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng ý kiến trong cuộc sống, tình cảm vợ chồng không còn hạnh phúc. Hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Từ tháng 02/2014, hai bên đã sống ly thân. Từ khi ly thân cho đến nay anh chị không có gặp nhau để bàn bạc về việc hôn nhân của anh chị nhằm tạo điều kiện chung sống lại với nhau. Tại phiên tòa hôm nay, chị L yêu cầu được ly hôn với anh D là hoàn toàn có căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, nên cần chấp nhận yêu cầu của chị L. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị L được ly hôn với anh D. Anh D không đồng ý ly hôn, nhưng anh D không tìm giải pháp hàn gắn lại hạnh phúc gia đình, nên yêu cầu của anh D không có cơ sở để chấp nhận.
[2.2] Về con chung: Chị L và anh D có 03 người con chung. Tại phiên tòa hôm nay, chị L yêu cầu được trực tiếp nuôi con là là Huỳnh Văn T, sinh ngày 22/3/2009 và Huỳnh Văn Kh, sinh ngày 02/12/2012 cho đến khi thành niên, không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con chung. Đồng thời, chị L cũng yêu cầu giao con chung giữa chị L và anh D là Huỳnh S, sinh ngày 08/10/2004 cho anh D nuôi dưỡng đến khi thành niên, chị L sẽ không phải cấp dưỡng nuôi con. Tại biên bản lấy lời khai ngày 22/10/2018 bị đơn là anh Huỳnh D cũng thống nhất giao con chung giữa anh D và chị L là Huỳnh Văn T, sinh ngày 22/3/2009 và Huỳnh Văn Kh, sinh ngày 02/12/2012 cho chị L nuôi dưỡng đến khi thành niên, anh sẽ không cấp dưỡng nuôi con. Đồng thời, anh D cũng thống nhất nuôi con chung giữa anh và chị L là Huỳnh S, sinh ngày 08/10/2004 cho đến khi thành niên, anh không yêu cầu chị L phải cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy: Giữa chị L và anh D đã thỏa thuận được việc nuôi con. Do đó, cần xử giao cháu Huỳnh Văn T, sinh ngày 22/3/2009 và Huỳnh Văn Kh, sinh ngày 02/12/2012 cho chị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng cho đến khi cháu T và cháu Kh thành niên. Tại phiên tòa hôm nay, chị L không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con, nên anh D không phải cấp dưỡng nuôi con. Dành quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con cho anh D, không ai được quyền ngăn cản theo quy định tại khoản 3 Điều 82, khoản 2 Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình. Đồng thời, xử giao cháu Huỳnh S, sinh ngày 08/10/2004 cho anh D trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng cho đến khi cháu S thành niên. Anh D không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con, nên chị L không phải cấp dưỡng nuôi con. Dành quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con cho chị L, không ai được quyền ngăn cản theo quy định tại khoản 3 Điều 82, khoản 2 Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình.
[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Chị L và anh D không có yêu cầu gì, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.
[4.4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị L phải chịu nghĩa vụ án phí đối với vụ án hôn nhân và gia đình là 300.000 đồng; Anh D không phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Từ những phân tích nêu trên, xét đề nghị của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn và đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cù Lao Dung là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Ngoài ra, căn cứ vào Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự, tuyên quyền kháng cáo cho các đương sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53, khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82, khoản 2 Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Điều 17 Luật phí và Lệ phí; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thùy L.
1. Về hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thùy L được ly hôn với anh Huỳnh D.
2. Về con chung:
- Giao cháu Huỳnh Văn T, sinh ngày 22/3/2009 và Huỳnh Văn Kh, sinh ngày 02/12/2012 cho chị Nguyễn Thùy L trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng cho đến khi cháu T và cháu Kh thành niên. Anh D không phải cấp dưỡng nuôi con. Dành quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con cho anh D, không ai được quyền ngăn cản.
- Giao cháu Huỳnh S, sinh ngày 08/10/2004 cho anh D trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng cho đến khi cháu S thành niên. Chị L không phải cấp dưỡng nuôi con. Dành quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con cho chị L không ai được quyền ngăn cản
3. Về tài sản chung và nợ chung: Chị L và anh D không có yêu cầu gì, nên không đặt ra xem xét giải quyết.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thùy L phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân và gia đình, nhưng chị L được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000609 ngày 11 tháng 9 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy, chị L đã nộp xong tiền án phí dân sự sơ thẩm; Anh D không phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
5. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thùy L có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đối với bị đơn Huỳnh D không có mặt tại phiên tòa thì có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
Bản án 12/2018/HNGĐ-ST ngày 19/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 12/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cù Lao Dung - Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 19/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về