Bản án 12/2018/HNGĐ-ST ngày 06/02/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN BIÊN, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 12/2018/HNGĐ-ST NGÀY 06/02/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 06 tháng 02 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tân Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 503/2017/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 10 năm 2017 về “Tranh chấp ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 01 năm 2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Ánh L, sinh năm 1993; Cư trú tại: Số nhà B, đường V, khu phố K, phường P, thành phố T, tỉnh Tây Ninh, vắng mặt.

Bị đơn: Anh Đặng Văn T, sinh năm 1982; Cư trú tại: Ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Tây Ninh, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khơi kiên tranh chấp ly hôn ngày 18 tháng 10 năm 2017 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ánh L trình bày:

Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Ánh L và anh Đặng Văn T tự nguyện chung sống vào năm 2011, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Trà Vong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh. Quá trình chung sống, thời gian đầu chung sống hạnh phúc, đến tháng 12/2012 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, do anh T không lo làm ăn chăm lo cho gia đình, vợ chồng thường xuyên cự cải. Chị không còn chung sống với anh T từ tháng 11/2013 cho đến nay. Vào năm 2016 tại bản  án hôn nhân gia đình sơ thẩm số  29/2016/HNGĐ-ST ngày 30/6/2016 và bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 32/2016/HNGĐ-PT ngày 14/9/2016 không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị, nhưng anh chị vẫn không hàn gắn được cho đến nay. Vì vậy chị yêu cầu được ly hôn với anh Đặng Văn T.

Về con chung: Chị Nguyễn Thị Ánh L và anh Đặng Văn T có 01 con tên Đặng Nhật A, sinh ngày 02/02/2012. Hiện tại cháu Anh đang sống với chị L. Chị L yêu cầu nuôi con và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị Nguyễn Thị Ánh L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại văn bản đề ngày 20/11/2017 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn – anh Đặng Văn T trình bày:

Anh và chị Nguyễn Thị Ánh L chung sống vợ chồng vào năm 2011 và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Trà Vong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh đúng như chị L trình bày. Quá trình chung sống của vợ chồng không xảy ra mâu thuẫn gì, do anh T phải đi chấp hành án phạt tù từ tháng 11/2013 nên chị L yêu cầu ly hôn, nhưng anh vẫn còn T vợ con. Nay chị L yêu cầu ly hôn, anh không đồng ý.

Về con chung: Anh T thống nhất về con chung của vợ chồng là 01 con chung tên Đặng Nhật Anh, sinh ngày 02/02/2012. Anh T đồng ý giao cháu Anh cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, anh T không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Anh Đặng Văn T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa hôm nay:

Chị L và anh T có đơn xin xét xử vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

+ Về thủ tục thụ lý, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng đã đảm bảo tuân thủ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự

+ Về nội dung vụ án: Về hôn nhân chị Nguyễn Thị Ánh L được ly hôn với anh Đặng Văn T; Về con chung giao chị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Đặng Nhật A, sinh ngày 02/02/2012. Ghi nhận chị L không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung và nợ chung chị L và anh T không yêu cầu nên ghi nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị Ánh L và anh Đặng Văn T có đơn xin xét xử vắng mặt, căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị L, anh T.

[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Ánh L và anh Đặng Văn T tự nguyện chung sống vào năm 2011, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Trà Vong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh. Đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Qua thu thập chứng cứ thể hiện: Chị L và anh T không còn chung sống vợ chồng từ tháng 11/2013 đến nay. Về phía anh T cho rằng quá trình chung sống không xảy ra mâu thuẫn gì, do anh T phải đi chấp hành án phạt tù từ  tháng 11/2013 nên chị L yêu cầu ly hôn, anh không đồng ý ly hôn vì anh còn T vợ con.

Tuy nhiên vào năm 2016 chị L đã nộp đơn yêu cầu xin ly hôn, tại bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 29/2016/HNGĐ-ST ngày 30/6/2016 và bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 32/2016/HNGĐ-PT ngày 14/9/2016 không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị L, anh chị đã có thời gian dài để hòa giải, hàn gắn gia đình nhưng vẫn không có kết quả. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa chị L và anh T đã mâu thuẫn trầm trọng, tình cảm không thể hàn gắn, đòi sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn của chị L là có cơ sở, phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị Ánh L và anh Đặng Văn T có 01 con chung tên Đặng Nhật A, sinh ngày 02/02/2012. Xét yêu cầu nuôi con của chị L là phù hợp vì hiện nay cháu Anh đang sinh sống ổn định với chị L, chị L có công việc, thu nhập ổn định đủ điều kiện nuôi dưỡng. Ghi nhận chị L không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Nguyễn Thị Ánh L và anh Đặng văn T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Ánh L phải chịu án phí theo quy định tại Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

1. Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Ánh L được ly hôn với anh Đặng Văn T.

2. Về con chung: Giao chị Nguyễn Thị Ánh L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Đặng Nhật A, sinh ngày 02/02/2012. Ghi nhận chị Nguyễn Thị Ánh L không yêu cầu anh Đặng Văn T cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn anh Đặng Văn T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, chị Nguyễn Thị Ánh L và các thành viên trong gia đình không quyền cản trở. Anh Đặng Văn T không được lạm dụng việc thăm nom con chung để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Chị Nguyễn Thị Ánh L và anh Đặng Văn T không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Ánh L phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn ) đồng án phí dân sư sơ thẩm, nhưng đươc trư vao sô tiên tam ưng an phi dân sư sơ thâm đa nộp theo  theo biên lai thu số 0004666 ngày 24/10/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh; chị L đa nôp đủ an phi dân sư sơ thâm.

Báo cho các đương sự biết được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh để xét xử phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết tại nơi cư trú của các đương sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2018/HNGĐ-ST ngày 06/02/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:12/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Biên - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về