Bản án 12/2018/HNGĐ-ST ngày 02/02/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 12/2018/HNGĐ-ST NGÀY 02/02/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 02 tháng 02 năm 2018, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện A, Toà án nhân dân huyện A xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 351/2017/TLST- HNGĐ ngày 25 tháng 10 năm 2017 về tranh chấp: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 01 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị D, sinh năm 1986; cư trú tại thôn P, xã Đ,huyện A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1981; cư trú tại thôn P, xã Đ, huyệnA, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, tại các bản tự khai và trong quá trình tố tụng, nguyênđơn là chị Nguyễn Thị D trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị kết hôn với anh Nguyễn Văn L trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã K, huyện T, tỉnh Hải Dương vào năm 2004. Sau khi kết hôn, chị về chung sống cùng gia đình anh L ở thôn C, xã K, huyện T, tỉnh Hải Dương đến năm 2012, vợ chồng chuyển về cư trú tại thôn P, xã Đ, huyện A, Hải Phòng cho đến nay. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2007 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh L thường xuyên uống rượu, mỗi khi uống rượu say, anh L về đập, phá tài sản của giađình và đánh, chửi vợ, con làm tinh thần chị bất an. Chị có góp ý nhưng anh L không tiếp thu, vì vậy tình cảm vợ chồng ngày càng xa cách. Mâu thuẫn đã được gia đình nội, ngoại hòa giải nhưng không có kết quả. Hiện tại chị và anh L sống ly thân không ai quan tâm đến ai. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Văn L.

Về con chung: Chị và anh L có hai con chung là Nguyễn Trọng V, sinh ngày14 tháng 5 năm 2006 và Nguyễn Thị M, sinh ngày 15 tháng 9 năm 2008. Chị đề nghị Tòa án giao con chung Nguyễn Thị M cho chị nuôi dưỡng, giao con chung Nguyễn Trọng V cho anh L nuôi dưỡng; không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Vợ chồng tự phân chia nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại các bản tự khai và trong quá trình tố tụng, bị đơn là anh Nguyễn Văn L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Về thời gian, điều kiện kết hôn và quá trình chung sống của anh và chị D theo như chị D đã khai là đúng. Trong cuộc sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm trong việc chăm sóc, giáo dục con chung. Anh có góp ý nhưng chị D không tiếp thu nên đôi lúc anh cũng cư xử không đúng mực đối với chị D. Hiện tại vợ chồng sống ly thân không ai quan tâm đến ai. Nay anh xác định anh vẫn còn tình cảm với chị D nên chị D xin ly hôn, anh không đồng ý, anh đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng về đoàn tụ.

Về con chung: Anh và chị D có hai con chung theo như lời khai chị D đã trình bày là đúng. Trường hợp Tòa án giải quyết cho anh và chị D ly hôn, anh đề nghị Tòa án giao con chung Nguyễn Trọng V cho anh nuôi dưỡng, giao con chung Nguyễn Thị M cho chị D nuôi dưỡng; không ai phải cấp dưỡng nuôi con..

Về tài sản chung: Vợ chồng tự phân chia nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, những người tiến hành tố tụng đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án, những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

- Về nội dung: Căn cứ Khoản 1, Điều 28; Điều 147; Khoản 1, Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 39 Bộ luật Dân sự; các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về án phí, lệ phí Tòa án, đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị D và công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về vấn đề con chung, không xem xét, giải quyết về tài sản. Chị D phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về việc xét xử vắng mặt đương sự: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị D và bị đơn anh Nguyễn Văn L vắng mặt tại phiên tòa và đều có quan điểm đề nghị Tòa ánxét xử vắng mặt, nên căn cứ Khoản 1, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Nguyễn Thị D và anh Nguyễn Văn L.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ lời khai các đương sự, căn cứ các tài liệu, chứng cứ do các đương sự cung cấp và do Tòa án thu thập xác định: Chị Nguyễn Thị D và anh Nguyễn Văn L kết hôn với nhau do tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K, huyện T, tỉnh Hải Dương vào năm 2004. Trong cuộc sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm, anh L chưa quan tâm, trách nhiệm đến gia đình, nên vợ chồng thường xuyên xảy ra va chạm cãi nhau. Hiện tại vợ chồng sống ly thân không ai quan tâm đến ai. Xét thấy, tình trạng hôn nhân giữa chị D và anh L đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, việc chị D xin ly hôn là có cơ sở chấp nhận. Anh L xác định anh vẫn còn tình cảm với chị D và không đồng ý ly hôn nhưng anh L cũng không có biện pháp gì để khắc phục mâu thuẫn vợ chồng. Vì vậy, việc anh L không đồng ý ly hôn là không có cơ sở chấp nhận.

[3]. Về con chung: Chị Nguyễn Thị D và anh Nguyễn Văn L có hai con chung là Nguyễn Trọng V, sinh ngày 14 tháng 5 năm 2006 và Nguyễn Thị M, sinh ngày 15 tháng 9 năm 2008. Chị D và anh L đều có quan điểm đề nghị Tòa án giao con chung Nguyễn Thị M cho chị D nuôi dưỡng và giao con chung Nguyễn Trọng V cho anh L nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, quan điểm của chị D và anh L là tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật, nên chấp nhận.

[4]. Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị D và anh Nguyễn Văn L tự phân chia, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

[5]. Về án phí: Chị Nguyễn Thị D phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Khoản 1, Điều 28; Điều 147; Khoản 1, Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

- Căn cứ Điều 39 Bộ luật Dân sự;

- Căn cứ các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Điều 6; Điểm a, Khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị D được ly hôn anh Nguyễn Văn L.

2. Về con chung: Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, giao con chung Nguyễn Thị M, sinh ngày 15 tháng 9 năm 2008 cho chị Nguyễn Thị D nuôidưỡng; giao con chung Nguyễn Trọng V, sinh ngày 14 tháng 5 năm 2006  cho anhNguyễn Văn L nuôi dưỡng; không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị D phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước. Chị D đã nộp số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí ly hôn tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện A theo Biên lai thu tiền số 7359 ngày 25 tháng 10 năm 2017.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

524
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2018/HNGĐ-ST ngày 02/02/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:12/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:02/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về