Bản án 12/2018/DS-ST ngày 10/10/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẠ HUOAI, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 12/2018/DS-ST NGÀY 10/10/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 10 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 29/2018/TLST-DS ngày 18 tháng 6 năm 2018 về việc “Tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2018/QĐXXST-DS ngày 30/8/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 08/2018/QĐST-DS ngày 18/9/2018 giữa các đương sự:

+ Nguyên đơn: Bà Trần Thị L – sinh năm: 1959

Trú tại: Số A – đường H – tổ dân phố C – thị trấn M – huyện Đ – tỉnh Lâm Đồng. (Bà L có mặt)

+ Bị đơn: Bà Võ Thị X – sinh năm: 1966

Trú tại: Thôn B- xã M – huyện Đ – tỉnh Lâm Đồng.

(Bà X vắng mặt lần thứ hai không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 12/6/2018 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn bà Trần Thị L trình bày: Ngày 20/10/2017 bà Trần Thị L có cho bà Võ Thị X vay số tiền là 270.000.000đ. Hai bên có lập giấy tờ viết tay, trong đó thỏa thuận thời hạn trả nợ là 01 tháng kể từ ngày 20/10/2017, lãi suất theo thỏa thuận miệng của hai bên, đến hạn trả nợ nhưng bà X không trả theo đúng thỏa thuận; bà L đã nhiều lần yêu cầu bà X trả nợ nhưng bà X không trả. Bà L khởi kiện yêu cầu bà Võ Thị X có trách nhiệm trả cho bà L số tiền đã vay là 270 triệu đồng và tiền lãi phát sinh tính đến ngày 04/5/2018 là 14.500.000đ.

Tổng cộng số tiền cả gốc và lãi bà L yêu cầu bà X có trách nhiệm trả là 284.850.000đ.

Ngoài ra bà Trần Thị L không trình bày hay yêu cầu gì khác.

Kèm theo đơn khởi kiện thì nguyên đơn cung cấp cho Tòa án những tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là: 01 giấy mượn tiền ngày 20/10/2017 (bản chính).

* Bị đơn bà Võ Thị X đã được Tòa án thông báo tống đạt các văn bản tố tụng nhiều lần nhưng không tham gia tố tụng, không cung cấp tài liệu, chứng cho Tòa án đúng thời hạn quy định.

Tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn bà Trần Thị L thay đổi một phần nội dung yêu cầu khởi kiện, chỉ yêu cầu bà Võ Thị X trả 270 triệu đồng tiền gốc vay và không yêu cầu tính lãi đối với số tiền gốc trên.

Bị đơn bà Võ Thị X vắng mặt tại phiên tòa không có lý do

Tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án:

+ Tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp: 02 giấy mượn tiền ngày 20/10/2017 (Bản chính + Bản photo); 01 Chứng minh nhân dân của Trần Thị L (bản sao); 01 sổ hộ khẩu mang tên chủ hộ Tạ Văn M1 (bản sao).

+ Tại liệu, chứng cứ do Tòa án thu thập: 01 bản tự khai của bà Trần Thị L ngày 18/6/2018; 01 biên bản xác minh ngày 19/6/2018.

Bị đơn không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ phát biểu ý kiến:

1. Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và các đương sự:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn không chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự

2. Việc giải quyết vụ án: Qua nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ do các đương sự cung cấp và do Tòa án thu thập được là giấy mượn tiền ngày 20/10/2017 bản chính, lời trình bày của các đương sự tại phiên tòa cho thấy về quan hệ tranh chấp giữa bà L và bà X có xác lập vay tiền với số tiền là 270 triệu đồng có chữ ký xác nhận của bà Võ

Thị X, thời hạn trả nợ thỏa thuận bằng miệng sau 01 tháng. Tuy nhiên quá thời hạn trên thì bà X không trả được nợ; do vậy bà L khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà X phải trả số tiền 270 triệu đồng còn thiếu là có cơ sở. Tòa án đã tiến hành các thủ tục tống đạt các văn bản tố tụng liên quan đến vụ án cho bị đơn nhưng bị đơn không có ý kiến gì nội dung khởi kiện của nguyên đơn do vậy yêu cầu khởi kiện nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả 270 triệu đồng tiền gốc là có căn cứ và chấp nhận. Từ những xem xét đánh giá nêu trên, quan điểm của đại diện viện kiểm sát căn cứ vào Điều Căn cứ vào Điều 429, Điều 463, Điều 465, Điều 466 của Bộ luật dân sự năm 2015 đề nghị HĐXX xem xét theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Ngày 20/10/2017 các đương sự lập giấy mượn tiền đối với số tiền vay là 270 triệu đồng. Do có tranh chấp về số tiền vay còn thiếu, nguyên đơn yêu cầu bị đơn là bà Võ Thị X có địa chỉ trú tại thôn 4, xã M, huyện Đạ Huoai, tỉnh L đồng trả số tiền vay chưa trả là 270 triệu đồng. Do đó, xác định đây là “tranh chấp về hợp đồng dân sự vay tài sản” và vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đạ Huoai là phù hợp quy định tại các điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Theo biên bản xác minh ngày 19/6/2018 của Tòa án tại công an xã M, huyện Đạ Huoai, tỉnh L Đồng thì bà Võ Thị X có đăng ký hộ khẩu thường trú và hiện nay không có mặt tại địa phương, thôn 4, xã M, huyện Đạ Huoai, tỉnh L Đồng. Tuy nhiên tại giấy vay tiền ngày 20/10/2017 có chữ ký của bà X thì bà X đã cung cấp địa chỉ cho người cho vay là bà Trần Thị L là: “Thôn 4, xã M”. Tuy nhiên hiện nay bà X không có mặt tại thôn 4, xã M và không thông báo cho bà Trần Thị L biết về nơi cư trú, làm việc mới theo quy định tại khoản 3 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 277 BLDS năm 2015 thì được coi là cố tình giấu địa chỉ và Tòa án tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung. Do đó theo quy định tại Khoản 3 Điều 26, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/05/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một số quy định tại khoản 1, khoản 3 Điều 192 BLTTDS năm 2015 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án thì vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Đạ Huoai. Vì vậy Tòa án nhân dân huyện Đạ Huoai thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là đúng thủ tục tố tụng.

 [2] Về thời hiệu khởi kiện và áp dụng pháp luật giải quyết:

- Giao dịch dân sự vay tài sản giữa bà L và bà X được xác lập ngày 20/10/2017 thời hạn trả nợ thỏa thuận là 01 tháng về chủ thể, hình thức và nội dung của hợp đồng đều tuân theo các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, đến ngày 16/5/2018 bà L nộp đơn yêu cầu Tòa án giải quyết. Do bà X không thực hiện đúng như thỏa thuận của hai bên nên đến ngày 20/11/2017 quyền và lợi ích hợp pháp của bà L bị xâm phạm, thời hiệu khởi kiện được xác định là 03 năm kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm phù hợp với quy định tại Điều 429 Bộ luật dân sự năm 2015.

 [3] Về sự có mặt của đương sự: Trong quá trình giải quyết vụ án Toà án đã thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng cho các đương sự theo quy định quy định tại Điều 177, Điều 179 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 để thông báo thụ lý vụ án, triệu tập đương sự tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, tham gia phiên tòa. Tuy nhiên, bị đơn bà Võ Thị X không gửi văn bản nêu ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện, không cung cấp chứng cứ cho Toà án đúng thời hạn quy định, không đến Tòa theo đúng thời gian triệu tập. Tòa án đã tống đạt hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập tham gia phiên tòa cho bị đơn bà Võ Thị X nhưng tại phiên tòa hôm nay bị đơn vắng mặt lần thứ hai không có lý do, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 diều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

 [4] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị L buộc bị đơn bà Võ Thị X phải trả số tiền gốc đã vay là 270 triệu đồng Hội đồng xét xử thấy rằng: Theo tài liệu chứng cứ do nguyên đơn cung cấp là hợp đồng vay tiền ngày 20/10/2017 giữa nguyên đơn và bị đơn về chủ thể kí kết hợp đồng, về mục đích, hình thức và nội dung của hợp đồng đều tuân theo các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015. Tại hợp đồng này thể hiện nội dung là vào ngày 20/10/2017 bị đơn có vay của nguyên đơn số tiền là: 270.000.000đ (Hai trăm bảy mươi triệu đồng), thời hạn trả nợ là 01 tháng. Đến ngày 20/11/2017 là hạn trả nợ cuối cùng nhưng từ 20/11/2017 đến nay bị đơn chưa trả cho nguyên đơn bất cứ khoản tiền nào liên quan đến số tiền đã vay. Do đó Hội đồng xét xử xét thấy đối với yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị L về việc buộc bị đơn bà Võ Thị X phải trả số tiền gốc đã vay là: 270.000.000đ là có cơ sở và được chấp nhận. Về khoản tiền lãi vay: Do nguyên đơn bà Trần Thị L thay đổi một phần nội dung yêu cầu khởi kiện, chỉ yêu cầu bà Võ Thị X trả 270 triệu đồng tiền gốc vay và không yêu cầu tính lãi đối với số tiền gốc trên nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [5] Về đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về việc chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn số tiền là 270.000.000đ (Hai trăm bảy mươi triệu đồng) tiền gốc vay là phù hợp nên được chấp nhận.

 [6] Về án phí: Nguyên đơn bà Trần Thị L được Tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện nên được trả lại số tiền 7.121.000 đồng, tiền tạm ứng án phí dân sự đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2015/0007524 ngày 18 tháng 6 năm 2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và khoản 3 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 31/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị đơn bà Võ Thị X có nghĩa vụ trả cho bà L số tiền là 270 triệu đồng. Do vậy bị đơn bà Võ Thị X phải nộp 13.500.000đ (Mười ba triệu năm trăm ngàn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch buộc thực hiện nghĩa vụ trả tiền là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngay 31/12/2016 cuûa Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, 144, 147, 227, 228, 266, 271 và Điều 273 luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 277, 429, 463, 465, 466 của Bộ luật dân sự năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/05/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;

Căn cứ Nghị quyết soá: 326/2016/UBTVQH14 ngaøy 31/12/2016 cuûa Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị L:

Buộc bà Võ Thị X có trách nhiệm trả cho bà Trần Thị L số tiền gốc vay còn thiếu là 270.000.000đ (Hai trăm bảy mươi triệu đồng).

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, bên phải thi hành án còn phải trả số tiền lãi, tương ứng với thời gian và số tiền chậm trả, theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự.

2. Về án phí: Buộc bị đơn bà Võ Thị X phải có trách nhiệm nộp 13.500.000đ (Mười ba triệu năm trăm ngàn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Trả lại cho nguyên đơn bà Trần Thị L số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 7.121.000 đồng, tiền tạm ứng án phí dân sự đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2015/0007524 ngày 18 tháng 6 năm 2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.

3. Quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án hôm nay; đối với đương sự vắng mặt thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án, để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

 “ Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành ánh dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

251
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2018/DS-ST ngày 10/10/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:12/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đạ Huoai - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 10/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về