Bản án 12/2017/HSPT ngày 17/07/2017 về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 12/2017/HSPT NGÀY 17/07/2017 VỀ TỘI MUA BÁN VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17/7/2017, tại phòng xử án Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 14/2017/HSPT ngày 21/6/2017 đối với các bị cáo: Giàng A K, Ly A T do có kháng cáo của các bị cáo Giàng A K, Ly A T đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 15/2017/HSST ngày 17/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Điện Biên.

Các bị cáo có kháng cáo:

1. Giàng A K (tên gọi khác: Không) sinh năm: 1980 tại huyện T, tỉnh Điện Biên. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Làm ruộng, nương; trình độ văn hóa: 01/12; dân tộc: Mông; con ông: Giàng A T (đã chết) và bà: Hờ Thị M (đã chết); bị cáo có vợ: Sùng Thị M và có 02 con, con lớn sinh năm 2005, con nhỏ sinh năm 2008; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/12/2016 cho đến nay. Có mặt.

2. Ly A T (tên gọi khác: Không) sinh năm: 1983 tại huyện T, tỉnh Điện Biên.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn Đ, xã M, huyện T, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Làm ruộng, nương; trình độ văn hóa: Không; dân tộc: Mông; con ông: Thào A L và bà: Giàng Thị C; bị cáo có vợ: Giàng Thị K1 (tên gọi khác: Giàng Thị K2) và có 02 con, con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2005; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/01/2017 cho đến nay. Có mặt.

Bị cáo không có kháng cáo và không bị kháng cáo, không bị kháng nghị:

Giàng A S (tên gọi khác: Không) sinh năm: 1976 tại huyện T, tỉnh Điện Biên. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Làm ruộng, nương; trình đ văn hóa: Không; con ông: Giàng A T và bà: H Th M; bị cáo có vợ: Lỳ Thị S và có 05 con, con lớn nhất sinh năm 2000, con nhỏ nhất sinh năm 2015; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/12/2016.

Những người tham gia tố tụng khác có liên quan đến kháng cáo:

- Người bào chữa cho bị cáo Ly A T: Ông Đỗ Thế Đ là Luật sư, Văn phòng Luật sư T thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Điện Biên. Có mặt.

Người phiên dịch tiếng Mông: Ông Thào A S, sinh năm: 1995; trú tại: Bản T, xã T, huyện T, tỉnh Điện Biên. Có mặt.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, bị cáo Giàng A S không kháng cáo, Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên không triệu tập đến phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Điện Biên và Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Điện Biên thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 09/12/2016, bị cáo Giàng A K điều khiển xe mô tô chở bị cáo Giàng A S và bà Lỳ Thị S xuống trung tâm thị trấn T. Khi đến trung tâm thị trấn, bị cáo K vào nhà người quen chơi. Đến khoảng 15 giờ, bị cáo K gặp bị cáo S và được bị cáo S rủ góp tiền để bị cáo S đi mua Hêrôin về sẽ chia cho bị cáo K sử dụng, bị cáo K đồng ý và đưa cho bị cáo S 300.000,đ để mua hộ Hêrôin. Khoảng 16 giờ, bị cáo Ly A T nhận được cuộc gọi của ông Lờ A S để hỏi mua Hêrôin với số tiền 200.000,đ và một người đi cùng Lờ A S là bị cáo Giàng A S mua Hêrôin với số tiền 1.200.000,đ, bị cáo T nói còn và đồng ý bán. Do bị cáo T và Lờ A S đã trao đổi từ trước về số tiền mua Hêrôin, nên bị cáo T đã chia Hêrôin thành 02 gói khác nhau tương ứng với số tiền mua. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, bị cáo S hỏi mượn xe mô tô của bị cáo K để đi mua Hêrôin, bị cáo K đồng ý và giao xe mô tô cho bị cáo S. Đến khoảng 19 giờ, bị cáo T mang theo 02 gói Hêrôin để vào túi áo dưới bên phải đang mặc và điều khiển xe mô tô đến khu vực thôn P, xã M chờ và gọi điện thoại cho Lờ A S đến điểm hẹn, khi đến điểm hẹn Lờ A S mua số tiền 200.000,đ được 01 gói nhỏ Hêrôin, còn bị cáo S mua số tiền 1.200.000,đ được 01 gói nhỏ Hêrôin còn lại. Sau đó, bị cáo S quay trở về, bị cáo K biết bị cáo S đã mua được Hêrôin nên đã chở bị cáo S và bà Lỳ Thị S về, trên đường về đến khu vực thôn T, xã S thì bị phát hiện và bắt giữ.

Ngoài ra, bị cáo Giàng A S còn khai nhận: Tháng 10, 11/2016, bị cáo Giàng A S đã 02 lần bán Hêrôin cho Sần Lao L 20.000,đ, bán cho Ly Sửu D 20.000,đ. Bị cáo còn cùng Lờ A S mua Hêrôin với bị cáo T 02 lần. Những lần mua Hêrôin đều do Lờ A S liên lạc điện thoại trước cho bị cáo T và địa điểm mua đều tại đoạn đường thuộc thôn P, xã M, khi đến mua Hêrôin bị cáo S đều không cân trọng lượng. Tại Cơ quan điều tra, Lờ A S và bị cáo Ly A T đều không công nhận hành vi mua bán Hêrôin vào tháng 10, 11/2016.

Tại Biên bản mở niêm phong, xác định trọng lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng ngày 12/12/2016 của Cơ quan CSĐT, Công an huyện T. Xác định gói chất bột màu trắng đục thu giữ của bị cáo Giàng A S có trọng lượng là: 2,08 gam.

Tại bản Kết luận giám định số: 200/GĐ-PC584 ngày 17/02/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận:

"- Mẫu chất bột màu trắng gửi giám định được trích ra từ vật chứng thu giữ của Giàng A S, Giàng A K là chất ma túy: Loại Hêrôin.

- Trọng lượng vật chứng thu giữ của Giàng A S, Giàng A K là 2,08 gam."

Tại Bản án số: 15/2017/HSST ngày 17/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Điện Biên đã quyết định:

"1. Tuyên bố:

- Giàng A S phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy". Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194/BLHS; các điểm p, q khoản 1, khoản 2 Điều 46/BLHS, xử phạt bị cáo Giàng A S 07 năm tù.

- Bị cáo Ly A T phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy". Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194/BLHS; điểm p khoản 1 Điều 46/BLHS, xử phạt bị cáo Ly A T 07 năm 06 tháng tù.

- Bị cáo Giàng A K phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Áp dụng khoản 1 Điều 194/Bộ luật hình sự năm 1999, điểm c khoản 1 Điều 249/Bộ luật hình sự năm 2015, điểm p khoản 1 Điều 46/BLHS, xử phạt bị cáo Giàng A K 02 năm 06 tháng tù."

Ngoài ra, Bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

Sau khi tuyên án, ngày 26/5/2017, bị cáo Ly A T có kháng cáo và ngày 29/5/2017, bị cáo Giàng A K cũng có đơn kháng cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 15/2017/HSST, ngày 17/5/2016 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Điện Biên với cùng nội dung: Xin giảm nhẹ mức hình phạt vì lý do con còn nhỏ, gia đình có hoàn cảnh khó khăn. Bị cáo Giàng A S không kháng cáo.

Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Bản án sơ thẩm đã tuyên là đúng người, đúng tội, không oan, sai. Các bị cáo giữ nguyên kháng cáo và xin tòa giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát ngồi duy trì quyền công tố xét thấy: Về hình thức, đơn kháng cáo nằm trong hạn luật định, được coi là hợp lệ. Về nội dung, không chấp nhận nội dung kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 2 Điều 248/Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Người bào chữa cho bị cáo Ly A T đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm: Xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì bị cáo nhận điện thoại mua 02 gói Hêrôin cho 02 người nhưng khi giao nhận chỉ xảy ra một lần nên không áp dụng tình tiết định khung đối với bị cáo như Bản án sơ thẩm đã tuyên.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà phúc thẩm, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, ý kiến của người bào chữa.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Về hình thức: Đơn kháng cáo của các bị cáo Giàng A K, Ly A T nằm trong hạn luật định, được coi là kháng cáo hợp lệ.

Về nội dung kháng cáo: Xét thấy cấp sơ thẩm truy tố, xét xử đối với bị cáo Giàng A K về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo Ly A T về hành vi mua bán trái phép chất ma túy là có căn cứ, đúng pháp luật. Các bị cáo kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt. HĐXX thấy rằng, mặc dù gia đình của cả hai bị cáo đều có hoàn cảnh khó khăn, các bị cáo là lao động chính trong gia đình, song, tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo không xuất trình được tình tiết, chứng cứ mới có lợi cho các bị cáo nên các bị cáo không đủ điều kiện để được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ khác. Đối với yêu cầu của người bào chữa cho bị cáo Ly A T do không có cơ sở để chấp nhận nên Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát, giữ nguyên quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 15/2017/HSST ngày 17/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Điện Biên.

Các phần khác của Bản án hình sự không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Áp dụng Điều 99/BLTTHS và Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 quy định về lệ phí, án phí, các bị cáo không phải chịu án phí hình sự Phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 248/BLTTHS,

QUYẾT ĐỊNH

1. Không chấp nhận nội dung đơn kháng cáo của các bị cáo Giàng A K, Ly A T. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 15/2017/HSST ngày 17/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Điện Biên.

2. Tuyên bố:

- Bị cáo Ly A T phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194/BLHS; điểm p khoản 1 Điều 46/BLHS, xử phạt bị cáo Ly A T 07 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/01/2017.

- Bị cáo Giàng A K phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 1 Nghị quyết 144/2016/QH13, điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS năm 2015, điểm p khoản 1 Điều 46/BLHS, xử phạt bị cáo Giàng A K 02 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/12/2017.

3. Áp dụng Điều 99/BLTTHS và Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 quy định về lệ phí, án phí Tòa án, các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các Quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

505
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2017/HSPT ngày 17/07/2017 về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:12/2017/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về