TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH CỬU, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 121/2020/HS-ST NGÀY 31/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 31 tháng 12 năm 2020 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 118/2020/TLST-HS ngày 18 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 115/2020/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 12 năm 2020 đối với các bị cáo:
1. Nguyễn Thị Cẩm T, sinh năm 1993 (Tên gọi khác: Không), tại: Sóc Trăng; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 15C, V, Khóm 1, Phường 10, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng; Nơi cư trú: Ấp 1, xã T, huyện V, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Làm móng tay; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T (còn sống) và bà Lý Thị K (còn sống); có 02 (hai) con sinh năm 2013 và 2015; tiền án: Không; tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt giữ từ ngày 23/7/2020, được trả tự do ngày 31/7/2020; ngày 12/11/2020 bị bắt tạm giam đến nay (Có mặt).
2. Huỳnh Tấn P, sinh năm 1997 (Tên gọi khác: Không), tại: Đồng Nai; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp 1, xã T, huyện V, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Thanh L (còn sống) và bà Lê Thị P (còn sống); Bị cáo chưa có vợ, con.
Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 22/7/2020, được trả tự do và thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú ngày 24/7/2020 (Có mặt).
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
- Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1962 Địa chỉ: Ấp 1, xã T, huyện V, tỉnh Đồng Nai (Vắng mặt).
- Bà Nguyễn Thị Thanh M, sinh năm 1992 Địa chỉ: Đường số 4, Khu phố 4, phường A, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 18 giờ 00 phút ngày 22/7/2020, tổ tuần tra của Công an huyện Vĩnh Cửu phát hiện Huỳnh Tấn P điều khiển xe mô tô biển số 60F2-85938 có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe lại để kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện 01 bịch nilong bên trong có chứa tinh thể màu trắng (nghi là ma túy).
Quá trình điều tra, xác định nguồn gốc ma túy của Huỳnh Tấn P như sau: Khoảng 17 giờ 30 ngày 22/7/2020, Huỳnh Tấn P sử dụng phần mềm Messeger gọi cho Nguyễn Thị Cẩm T hỏi mua 300.000 đồng ma túy, T đồng ý và sử dụng điện thoại của T gọi vào số điện thoại 0919.015.009 của người tên Ba Già (không rõ họ, địa chỉ) hỏi mua 300.000 đồng ma túy giúp P. Ba Già đồng ý giao ma túy cho T thông qua Lý (không rõ họ, địa chỉ) tại tiệm Nail của T. Khoảng 18 giờ cùng ngày, đối tượng Lý đến tiệm Nail của T, lúc này P cũng điều khiển xe mô tô biển số 60F2-859.38 đến. Lý đưa cho T 01 bịch nilong chứa tinh thể màu trắng được giấu trong tờ tiền 2.000 đồng gấp nhỏ, T đưa lại cho P. P nhận bịch nilong và để 300.000 đồng trên ghế cho T rồi ra về.
Qua lời khai của P, lực lượng Công an tiến hành kiểm tra hành chính tiệm nail “Tú Nguyễn” phát hiện thu giữ trong ngăn tủ nhỏ đựng quần áo trên gác lửng 02 bịch nilong hàn kín hai đầu bên trong có chứa 01 viên nén màu hồng và 01 viên nén màu xanh (nghi là ma túy tổng hợp). T khai nhận mua của một người tên Tùng (không rõ họ, địa chỉ) ở phường Trảng Dài, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai với mục đích sử dụng.
Quá trình điều tra, ngoài hành vi trên, P khai nhận ngày 21/7/2020, T còn liên lạc với đối tượng Ba Già để hỏi mua ma túy cho P với số tiền 200.000 đồng. T cũng thừa nhận ngày 21/7/2020, T liên lạc với Ba Già để mua ma túy cho P. Ba Già cho đối tượng Lý đến tiệm nail “Tú Nguyễn” bán ma túy cho P.
* Tang vật thu giữ:
- Thu giữ của Huỳnh Tấn P:
+ 01 xe mô tô loại Vision, biển số: 60F2-859.38.
+ 01 điện thoại Iphone Pro Max (Phước giao nộp).
+ 01 tờ tiền mệnh giá 2.000 đồng được gấp nhỏ lại, trong tờ tiền có 01 bịch nilong hàn kín bên trong có chứa tinh thể màu trắng.
- Thu giữ của Nguyễn Thị Cẩm T:
+ 01 bịch nilong được hàn kín, bên trong có chứa 01 viên nén màu hồng.
+ 01 bịch nilong được hàn kín, bên trong có chứa 01 viên nén màu xanh.
+ 01 điện thoại di động Iphone 8 Plus (T giao nộp).
* Cơ quan cảnh sát điều tra đã xử lý tang vật:
- Xe mô tô biển số 60F2-859.38 thuộc sở hữu của chị Huỳnh Thị S, S cho P mượn xe nhưng không biết P sử dụng vào việc phạm tội. Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại mô tô biển số 60F2-859.38 cho chị Huỳnh Thị S.
- 01 Điện thoại di động Iphone 8 Plus của chị Nguyễn Thị Thanh M, Mai cho T mượn nhưng không biết T sử dụng vào việc phạm tội. Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại Iphone 8 Plus cho chị Nguyễn Thị Thanh M.
Tại Kết luận giám định số 1497/KLGĐ-PC09 ngày 29/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận đối với mẫu vật thu giữ của Huỳnh Tấn P: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,3106 gam, loại Methamphetamine.
Tại Kết luận giám định số 1498/KLGĐ-PC09 ngày 29/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận đối với mẫu vật thu giữ của Nguyễn Thị Cẩm T:
+ Mẫu 01 (Một) viên nén màu hồng hình tròn (Kí hiệu M1) được niêm phong gửi đến giám định có khối lượng: 0,2518 gam, loại Acetaminnofen.
+ Mẫu 01 (Một) viên nén màu xanh không rõ hình (Kí hiệu M2) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,1179 gam, loại MDMA.
Acetaminnofen không thuộc Danh mục chất ma túy và tiền chất ban hành kèm theo Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ.
Quá trình điều tra cũng như quá trình xét xử, các bị cáo không có ý kiến gì về Bản kết luận giám định của Công an tỉnh Đồng Nai.
Đối tượng tên Ba Già và Lý có hành vi mua bán ma túy nhưng chưa rõ đặc điểm nhân thân. Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.
Cáo trạng số 119/CT-VKSVC ngày 16/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai truy tố:
+ Bị cáo Nguyễn Thị Cẩm T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017).
+ Bị cáo Huỳnh Tấn P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu phát biểu luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Đối với bị cáo Nguyễn Thị Cẩm T:
+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm b khoản 2 Điều 251, Điều 47, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Cẩm T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
+ Xử phạt bị cáo mức án từ 07 (Bảy) năm đến 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo mức án từ 12 (Mười hai) tháng đến 14 (Mười bốn) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Tổng hợp hình phạt đối với bị cáo.
- Đối với bị cáo Huỳnh Tấn P:
+ Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
+ Trong quá trình điều tra, truy tố, P đã tích cực hợp tác với Cơ quan cảnh sát điều tra trong việc phát hiện Nguyễn Thị Cẩm T phạm tội nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
+ P bị bệnh Thalassenmia bẩm sinh, phải điều trị truyền máu định kỳ hàng tháng tại Bệnh viện đa khoa Thủ Đức (Có xác nhận của Bệnh viện đa khoa Thủ Đức) nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, các Điều 47, 54, điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) tuyên bố bị cáo Huỳnh Tấn P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
+ Xử phạt bị cáo mức án từ 07 (Bảy) đến 09 (Chín) tháng tù.
- Xử lý vật chứng:
+ Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định.
+ Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại Iphone 11 ProMax, màu xám.
- Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Các bị cáo nói lời sau cùng:
- Bị cáo T: Bị cáo đang nuôi con nhỏ, cha mẹ bị cáo đã hết tuổi lao động, bị cáo là lao động chính trong gia đình, xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để về nuôi con.
- Bị cáo P: Không nói lời sau cùng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Vĩnh Cửu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, các bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ, đã có đủ cơ sở kết luận:
Khoảng 18 giờ 00 phút ngày 22/7/2020, tổ tuần tra của Công an huyện Vĩnh Cửu phát hiện Huỳnh Tấn P điều khiển xe mô tô biển số 60F2-85938 có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe lại để kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện 01 bịch nilong bên trong có chứa tinh thể màu trắng (nghi là ma túy).
Quá trình điều tra, xác định nguồn gốc ma túy của Huỳnh Tấn P như sau: Khoảng 17 giờ 30 ngày 22/7/2020, Huỳnh Tấn P sử dụng phần mềm Messeger gọi cho Nguyễn Thị Cẩm T hỏi mua 300.000 đồng ma túy, T đồng ý và sử dụng điện thoại của T liên lạc với Ba Già hỏi mua 300.000 đồng ma túy giúp P. Ba Già đồng ý giao ma túy cho T thông qua Lý tại tiệm Nail của T. Khoảng 18 giờ cùng ngày, đối tượng Lý đến tiệm Nail của T, lúc này P cũng điều khiển xe mô tô biển số 60F2-859.38 đến. L đưa cho T 01 bịch nilong chứa tinh thể màu trắng được giấu trong tờ tiền 2.000 đồng gấp nhỏ, T đưa lại cho P. P nhận bịch nilong và để 300.000 đồng trên ghế cho T rồi ra về.
Qua lời khai của P, lực lượng Công an tiến hành kiểm tra hành chính tiệm nail “Tú Nguyễn” phát hiện thu giữ trong ngăn tủ nhỏ đựng quần áo trên gác lửng 02 bịch nilong hàn kín hai đầu bên trong có chứa 01 viên nén màu hồng và 01 viên nén màu xanh (nghi là ma túy tổng hợp). T khai nhận mua của một người tên Tùng (không rõ họ, địa chỉ) ở phường Trảng Dài, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai với mục đích sử dụng.
Quá trình điều tra, ngoài hành vi trên, P khai nhận ngày 21/7/2020, T còn liên lạc với đối tượng Ba Già để hỏi mua ma túy cho P với số tiền 200.000 đồng. T cũng thừa nhận ngày 21/7/2020, T liên lạc với Ba Già để mua ma túy cho P.
Tại Kết luận giám định số 1497/KLGĐ-PC09 ngày 29/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận đối với mẫu vật thu giữ của P: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,3106 gam, loại Methamphetamine.
Tại Kết luận giám định số 1498/KLGĐ-PC09 ngày 29/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận đối với mẫu vật thu giữ của Nguyễn Thị Cẩm T:
+ Mẫu 01 (Một) viên nén màu hồng hình tròn (Kí hiệu M1) được niêm phong gửi đến giám định có khối lượng: 0,2518 gam, loại Acetaminnofen.
+ Mẫu 01 (Một) viên nén màu xanh không rõ hình (Kí hiệu M2) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,1179 gam, loại MDMA.
Acetaminnofen không thuộc Danh mục chất ma túy và tiền chất ban hành kèm theo Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ.
Các bị cáo T, P đã cất giấu trái phép chất ma túy có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam nên hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Bị cáo T đã có hành vi cùng với Ba Già, Lý bán ma túy cho P 02 lần nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự quản lý công cộng các loại chất cấm của Nhà nước. Do đó, cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, răn đe đối với các bị cáo cũng như phòng ngừa tội phạm nói chung.
T phạm tội với vai trò giúp sức cho Ba Già, Lý nhưng không nhằm mục đích thu lợi nhuận, khi xem xét hình phạt đối với bị cáo T, Hội đồng xét xử cũng xem xét để cho bị cáo được hưởng mức án phù hợp với hành vi phạm tội, thể hiện tính khoan hồng của Nhà nước.
Do bị cáo Nguyễn Thị Cẩm T bị xét xử cùng 01 lần do phạm nhiều tội nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 55 của Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017) để tổng hợp hình phạt đối với bị cáo.
[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Bị cáo Nguyễn Thị Cẩm T: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đang nuôi con nhỏ, là lao động chính, bị cáo không thu lợi trong các lần môi giới bán ma túy cho P là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
- Bị cáo Huỳnh Tấn P:
+ Trong quá trình điều tra, truy tố, P đã tích cực hợp tác với Cơ quan cảnh sát điều tra trong việc tố giác, phát hiện Nguyễn Thị Cẩm T phạm tội nên việc Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có cơ sở.
+ Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
+ P bị bệnh Thalassenmia là bệnh thiếu máu tán huyết di truyền hay thiếu máu tán huyết bẩm sinh. Bị cáo phải điều trị truyền máu định kỳ hàng tháng tại Bệnh viện đa khoa Thủ Đức (Có xác nhận của Bệnh viện đa khoa Thủ Đức) là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên Hội đồng xét xử quyết định áp dụng Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đối với bị cáo P.
[5] Xử lý vật chứng:
Cơ quan điều tra Công an huyện Vĩnh Cửu đã trả lại xe mô tô biển số 60F2-859.38 cho chủ sở hữu bà Huỳnh Thị S, trả 01 điện thoại di động Iphone 8 Plus cho chủ sở hữu chị Nguyễn Thị Thanh M là đúng quy định của pháp luật.
Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại Iphone 11 ProMax, màu xám (Theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 17/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai).
- Tịch thu tiêu hủy:
+ Số ma túy còn lại sau giám định khối lượng 0,2723gam và toàn bộ mẫu vật được niêm phong (Theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 17/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai).
+ Số ma túy còn lại sau giám định khối lượng 0,0661gam và mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng 0,1572 gam được niêm phong (Theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 17/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai).
[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
[7] Kiến nghị Cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ để xử lý đối với đối tượng Ba Già, Lý theo quy định của pháp luật.
[8] Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh và hình phạt:
- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Cẩm T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm b khoản 2 Điều 251, Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 55 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Cẩm T 01 (Một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và 07 (Bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Tổng hợp hình phạt của hai tội, buộc bị cáo Nguyễn Thị Cẩm T phải chấp hành: 08 (Tám) năm tù, thời hạn tù tính ngày 12/11/2020, được trừ đi thời gian bị cáo đã bị tạm giữ từ ngày 23/7/2020 đến ngày 30/7/2020.
- Tuyên bố bị cáo Huỳnh Tấn P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38, điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Tấn P 09 (Chín) tháng tù, thời hạn tù tính ngày bị cáo vào cơ sở giam giữ để chấp hành án, được trừ đi thời gian bị cáo đã bị tạm giữ từ ngày 22/7/2020 đến ngày 24/7/2020.
2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.
- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại Iphone 11 ProMax, màu xám (Theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 17/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai).
- Tịch thu tiêu hủy:
+ Số ma túy còn lại sau giám định khối lượng 0,2723 gam được niêm phong (Theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 17/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai).
+ Số ma túy còn lại sau giám định khối lượng 0,0661gam và mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng 0,1572 gam được niêm phong (Theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 17/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai).
3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Nguyễn Thị Cẩm T, Huỳnh Tấn P mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án chị Nguyễn Thị Thanh M có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Huỳnh Thị S vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án 121/2020/HS-ST ngày 31/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 121/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Cửu - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về