Bản án 121/2020/HS-ST ngày 04/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG - TỈNH KHÁNH HÒA 

BẢN ÁN 121/2020/HS-ST NGÀY 04/6/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 6 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 140/2020/TLST-HS ngày 21 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 145/2020/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Đức T (Tên gọi khác: S), sinh năm 1987 tại Khánh H; Nơi cư trú: Tổ dân phố Bá H 1, phường Ninh T, thị xã Ninh H, tỉnh Khánh H; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn N (sinh năm 1968), con bà Nguyễn Thị Ngọc N (sinh năm 1966); Vợ: Nguyễn Thị Thu T (sinh năm 1988), có 01 con sinh năm 2014;

Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân:

- Ngày 10/11/2006, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Ninh H khởi tố vụ án, khởi tố bị can về hành vi “Cố ý gây thương tích”. Ngày 09/01/2007, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Ninh H ban hành Quyết định đình chỉ điều tra vụ án hình sự số 01, Quyết định đình chỉ điều tra bị can số 01 đối với hành vi phạm tội trên của Nguyễn Đức T do người bị hại rút yêu cầu khởi tố.

- Ngày 23/11/2004, bị Công an xã Ninh T ban hành Quyết định xử phạt hành chính về an ninh trật tự số 142/QĐ-XPHC về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/01/2020 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền và nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Nhật T, sinh năm 1993 Địa chỉ: Thôn Lập S, xã Tân L, huyện Hàm Thuận N, tỉnh Bình T.

Vắng mặt.

* Người làm chứng:

1. Lê Quốc T, sinh năm 1990 Địa chỉ: Tổ 17 Trường P, Vĩnh P, Nha T.

Vắng mặt.

2. Nguyễn Thị Thu T, sinh năm 1988 Địa chỉ: Thôn Đắc L 2, xã Vĩnh P, Nha T.

Vắng mặt.

3. Nguyễn N, sinh năm 1968 Địa chỉ: Tổ dân phố Bá 1, phường Ninh T, thị xã Ninh H, tỉnh Khánh H.

Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang truy tố về hành vi phạm tội như sau: Khoảng 12 giờ 40 phút ngày 08/01/2020, trong khi tuần tra tại khu vực đường Lý Ông T, tổ 20 Trường P, phường Vĩnh P, thành phố Nha T, Tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – Công an thành phố Nha Trang phát hiện Nguyễn Đức T có biểu hiển nghi vấn về ma túy nên tiến hành kiểm tra giấy tờ tùy thân. Lúc này, T bỏ chạy và ném xuống đất 06 đoạn ống hút nước nhựa, màu trắng, hàn kín hai đầu, bên trong có chứa chất bột nén màu trắng (được niêm phong, ký hiệu A) và 01 túi nylong có khóa hằn miệng, kích thước khoảng (1x1)cm, bên trong chứa chất bột màu trắng (được niêm phong, ký hiệu B). Tổ công tác truy đuổi, khống chế và bắt giữ được T và toàn bộ tang vật trên. Lúc này, T thừa nhận số tang vật mà T vứt xuống đất là ma túy dạng “Heroine” và “đá” của T mua về để sử dụng cho bản thân.

Tổ công tác tiến hành thu giữ, niêm phong toàn bộ tang vật, đưa T về trụ sở làm việc.

Tại Bản kết luận giám định số 73/GĐTP/2020 ngày 14/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Khánh Hòa kết luận:

-Chất bột nén màu trắng trong mẫu ký hiệu A gửi giám định là ma túy loại Heroine, có khối lượng 0,1498g.

-Tinh thể màu trắng trong mẫu ký hiệu B gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng 0,0113g.

Quá trình điều tra, Nguyễn Đức T khai nhận: khoảng 12 giờ 00 phút ngày 08/01/2020, Tín điều khiển xe máy hiệu Exciter, biển kiểm soát 86B4 – 312.09 đến khu vực Lầu B, phường Vĩnh P, thành phố Nha T nhằm mục đích tìm mua ma túy để sử dụng. Tại đây, T mua của một thanh niên (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) 06 tép ma túy loại Heroine và 01 túi “ma túy đá” với giá 350.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, T sử dụng tại chỗ hết 03 tép ma túy Heroine mà T đã mang theo sẵn trong người từ trước, còn số ma túy mới mua được, T cất giấu trong người và đi về. Khi đi đến khu vực đường Lý Ông T, gặp Tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – Công an thành phố Nha Trang nên T sợ và đã ném số ma túy cất giấu trong người xuống đất, bỏ lại xe máy và bỏ chạy nhưng bị Tổ công tác, khống chế, bắt giữ cùng toàn bộ số ma túy trên.

Tại bản cáo trạng số 130/CT-VKS ngày 20/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang đã truy tố bị cáo Nguyễn Đức T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang đã giữ nguyên kết luận truy tố bị cáo Nguyễn Đức T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Đức T, tuyên phạt bị cáo từ 01 (một) năm đến 02 (hai) năm tù.

Bị cáo Nguyễn Đức T khai nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, vắng mặt người có quyền và nghĩa vụ liên quan và một số người làm chứng, xét thấy những người này đã có lời khai tại cơ quan điều tra, việc vắng mặt của những người này không trở ngại cho việc giải quyết toàn bộ vụ án nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt những người này theo quy định tại Điều 292 và Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi tố tụng của những ngƣời tiến hành tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, tuy tố, thực hành quyền công tố tại phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tung. Vì vậy, các hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật hình sự.

[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Theo cáo trạng truy tố cho thấy, tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi như cáo trạng truy tố phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Căn cứ vào biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nha Trang, các vật chứng thu giữ được, đủ cơ sở để xác định: Khoảng 12 giờ 40 phút ngày 08/01/2020, tại khu vực đường Lý Ông Tr thuộc Tổ 20 Trường P, phường Vĩnh P, thành phố Nha T, Tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – Công an thành phố Nha Trang phát hiện Nguyễn Đức T đang tàng trữ trái phép 0,1498g ma túy loại Heroine và 0,0113g ma túy loại Methamphetamine để sử dụng cho bản thân.

Do đó, hành vi của Nguyễn Đức T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang đối với bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã tàng trữ hai chất ma túy là loại Heroine và Methamphetamine một cách trái phép để sử dụng, đây là chất gây nghiện, ảnh hưởng xấu đến trật tự địa phương. Tệ nạn ma túy đang là hiểm họa lớn đối với toàn xã hội, gây tác hại xấu cho sức khỏe con người, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân và làm gia tăng các tệ nạn xã hội. Ngoài ra, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy đã xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền về các chất ma túy của nhà nước. Bản thân bị cáo đã từng bị Công an huyện Ninh Hòa khởi tố vụ án, khởi tố bị can về hành vi “Cố ý gây thương tích” nhưng sau đó đình chỉ điều tra vụ án vì người bị hại rút yêu cầu khởi tố và bị Công an xã Ninh Thủy, huyện Ninh Hòa ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”. Vì vậy, hành vi của bị cáo cần phải xử lý nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm chung.

Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy nên tuyên bị cáo ở mức thấp của khung hình phạt cũng đủ tác dụng cải tạo, giáo dục, phòng ngừa chung trong xã hội và thể hiện được tính khoan hồng của pháp luật.

Đối với người thanh niên đã bán ma túy cho Nguyễn Đức T chưa xác định được nhân thân, lai lịch, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nha Trang đang tiếp tục xác minh, làm rõ, khi có đủ cơ sở sẽ xử lý sau.

Đối với chiếc xe máy hiệu Exciter, biển kiểm soát 86B4-312.09, quá trình điều tra, Nguyễn Đức T khai nhận nguồn gốc của xe máy do Tín mua lại trên mạng của một người tên T (không rõ lai lịch) với giá 28.000.000 đồng. Cơ quan điều tra xác định được chủ sở hữu xe máy hiệu Exciter, biển kiểm soát 86B4 – 312.09 là anh Nguyễn Nhật T (sinh năm: 1993; trú tại: thôn Lập S, xã Tân L, huyện Hàm Thuận N, tỉnh Bình T). Anh T bị mất chiếc xe này vào ngày 17/2/2019 tại thôn Lập S, xã Tân L, huyện Hàm Thuận N, tỉnh Bình T. Vụ án này hiện đang được Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Hàm Thuận N điều tra, xử lý. Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Nha Trang đã bàn giao chiếc xe trên cho Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Hàm Thuận N để xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét nội dung này.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Đối với người liên quan vắng mặt tại phiên tòa nên tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự khi có đơn yêu cầu.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Luật phí và lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án và Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ vào: Điểm i Khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Đức T.

[2] Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đức T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 08/01/2020.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự khi có đơn yêu cầu.

[4] Về án phí: Áp dụng Luật phí và lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án và Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo Nguyễn Đức T phải nộp 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người liên quan có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 121/2020/HS-ST ngày 04/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:121/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về