TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ MỸ, TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 121/2019/HNGĐ-ST NGÀY 10/06/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 10 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 46/2019/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 3 năm 2019, về ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 532/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2019, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Mỹ H, sinh năm 1989; cư trú tại thôn H S, xã C S, huyện P C, tỉnh Bình Định; có mặt.
- Bị đơn: Anh Trương Ngọc T, sinh năm 1987; cư trú tại số nhà 78 đường V, thị trấn B D, huyện P M, tỉnh Bình Định; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 27 tháng 02 năm 2019, tại lời khai và tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị Mỹ H trình bày: Chị và chồng của chị là anh Trương Ngọc T đăng ký kết hôn vào ngày 06 tháng 12 năm 2013 tại Ủy ban nhân dân xã C S, huyện P C, tỉnh Bình Định. Trước khi kết hôn, giữa chị và anh Trương Ngọc T tìm hiểu một thời gian rồi tự nguyện đăng ký kết hôn chứ không ai ép buộc, lừa dối. Sau khi kết hôn vợ chồng của chị sống chung với nhau tại nhà mẹ đẻ của chị nhưng vợ chồng chỉ sống hạnh phúc đến năm 2015 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn xuất phát từ việc vợ chồng của chị có quá nhiều bất đồng quan điểm sống, anh Trương Ngọc T không có trách nhiệm với gia đình, vợ, con. Vì mâu thuẫn trên và tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được nên năm 2015 anh Trương Ngọc T đã bỏ về nhà cha của anh Trương Ngọc T ở; từ đó chị và anh Trương Ngọc T không còn sống chung với nhau cho đến nay. Nay quan hệ hôn nhân của vợ chồng chị đã mâu thuẫn trầm trọng, vợ chồng không còn tình cảm gì với nhau, mục đích của hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trương Ngọc T .
Trong thời gian chung sống vợ chồng của chị có một người con chung là cháu Trương Ngọc N, sinh ngày 27 tháng 4 năm 2014; hiện nay chị đang trực tiếp nuôi dưỡng con chung; nếu Tòa án cho chị được ly hôn với anh Trương Ngọc T, chị yêu cầu Tòa án giao con chung cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, chị không yêu cầu anh Trương Ngọc T cấp dưỡng nuôi con.
Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết tài sản chung của vợ chồng. Hiện nay vợ chồng của chị không phải thực hiện nghĩa vụ chung về tài sản đối với ai khác nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra chị không trình bày và yêu cầu gì thêm.
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định đã tiến hành tống đạt Thông báo về việc thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa hợp lệ cho bị đơn anh Trương Ngọc T tham gia tố tụng theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng anh Trương Ngọc T cũng không có mặt tại phiên tòa lần thứ hai mà không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Đối với Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; nguyên đơn thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa xét xử lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Mỹ H, cho chị Nguyễn Thị Mỹ H được ly hôn với anh Trương Ngọc T; giao con chung của chị Nguyễn Thị Mỹ H và anh Trương Ngọc T là cháu Trương Ngọc N, sinh ngày 27 tháng 4 năm 2014 cho chị Nguyễn Thị Mỹ H trực tiếp nuôi dưỡng; chị Nguyễn Thị Mỹ H không yêu cầu anh Trương Ngọc T cấp dưỡng nuôi con nên đề nghị Hội đồng xét xử không xét. Chị Nguyễn Thị Mỹ H không tranh chấp về việc chia tài sản chung, nghĩa vụ về tài sản chung của vợ chồng và yêu cầu người khác thực hiện nghĩa vụ về tài sản; anh Trương Ngọc T cũng không có ý kiến, yêu cầu gì nên đề nghị Hội đồng xét xử không xét. Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.
Các tài liệu, chứng cứ do các đương sự giao nộp gồm: Giấy chứng nhận kết hôn số 49/2013, quyển số 01/2013 do Ủy ban nhân dân xã C S, huyện Phù C, tỉnh Bình Định chứng nhận vào ngày 06 tháng 12 năm 2013 (Bản chính); giấy khai sinh của cháu Trương Ngọc N, sinh ngày 27 tháng 4 năm 2014 (Bản sao); giấy chứng minh nhân dân của chị Nguyễn Thị Mỹ H (Bản sao); sổ hộ khẩu của hộ gia đình chị Nguyễn Thị Mỹ H (Bản sao).
Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Mỹ H và bị đơn anh Trương Ngọc T đăng ký kết hôn vào ngày 06 tháng 12 năm 2013 tại Ủy ban nhân dân xã C S, huyện P C, tỉnh Bình Định. Chị Nguyễn Thị Mỹ H yêu cầu ly hôn với anh Trương Ngọc T, yêu cầu giao con chung là cháu Trương Ngọc N, sinh ngày 27 tháng 4 năm 2014 cho chị Nguyễn Thị Mỹ H trực tiếp nuôi dưỡng; chị Nguyễn Thị Mỹ H không yêu cầu anh Trương Ngọc T cấp dưỡng nuôi con. Chị Nguyễn Thị Mỹ H không tranh chấp về việc chia tài sản chung, nghĩa vụ về tài sản chung của vợ chồng và yêu cầu người khác thực hiện nghĩa vụ về tài sản. Anh Trương Ngọc T không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; không tham gia tố tụng tại phiên tòa mà không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Tranh chấp giữa các đương sự trong vụ án là tranh chấp về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tại thời điểm thụ lý vụ án và hiện nay anh Trương Ngọc T cư trú tại số nhà 78 đường V, thị trấn B D, huyện P M, tỉnh Bình Định nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.
[2] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Trương Ngọc T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa xét xử lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt mà không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn anh Trương Ngọc T .
[3] Về nội dung vụ án:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Mỹ H và anh Trương Ngọc T đăng ký kết hôn được Ủy ban nhân dân xã C S, huyện P C, tỉnh Bình Định chứng nhận vào ngày 06 tháng 12 năm 2013 theo Giấy chứng nhận kết hôn số 49/2013, quyển số 01/2013. Việc kết hôn giữa chị Nguyễn Thị Mỹ H và anh Trương Ngọc T tuân theo các điều kiện quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 nên hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Mỹ H và anh Trương Ngọc T là hợp pháp. Chị Nguyễn Thị Mỹ H yêu cầu ly hôn với anh Trương Ngọc T vì cho rằng trong thời gian sống chung với nhau vợ chồng của chị có quá nhiều bất đồng quan điểm, anh Trương Ngọc T không có trách nhiệm với gia đình, vợ, con. Xuất phát từ những mâu thuẫn trên và tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được nên năm 2015 anh Trương Ngọc T đã bỏ về nhà cha, mẹ của anh Trương Ngọc T ở, từ đó chị và anh Trương Ngọc T không còn sống chung với nhau cho đến nay. Tòa án thu thập các tài liệu, chứng cứ xác định nguyên nhân mâu thuẫn giữa chị Nguyễn Thị Mỹ H và anh Trương Ngọc T để tiến hành hòa giải nhằm mục đích hàn gắn tình cảm vợ chồng chị Nguyễn Thị Mỹ H , anh Trương Ngọc T nhưng anh Trương Ngọc T không đến Tòa án để tham gia hòa giải và tại phiên tòa hôm nay anh Trương Ngọc T tiếp tục vắng mặt. Do đó có căn cứ chứng minh hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Mỹ H và anh Trương Ngọc T đã lâm vào trình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên theo quy định tại các điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử xét cho chị Nguyễn Thị Mỹ H được ly hôn với anh Trương Ngọc T .
Về con chung: Chị Nguyễn Thị Mỹ H yêu cầu giao con chung là cháu Trương Ngọc N, sinh ngày 27 tháng 4 năm 2014 cho chị Nguyễn Thị Mỹ H trực tiếp nuôi dưỡng; chị Nguyễn Thị Mỹ H không yêu cầu anh Trương Ngọc T cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy, chị Nguyễn Thị Mỹ H là người đang trực tiếp nuôi con chung; anh Trương Ngọc T không ý kiến gì đối với yêu cầu của chị Nguyễn Thị Mỹ H. Để bảo đảm quyền lợi mọi mặt của cháu Trương Ngọc N theo quy định tại Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, giao cháu Trương Ngọc N cho chị Nguyễn Thị Mỹ H trực tiếp trông nôm, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng. Chị Nguyễn Thị Mỹ H không yêu cầu anh Trương Ngọc T cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xét. Anh Trương Ngọc T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở, nhưng anh Trương Ngọc T không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của chị Nguyễn Thị Mỹ H. Khi cần thiết anh Trương Ngọc T và chị Nguyễn Thị Mỹ H đều có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng nuôi con theo quy định tại các điều 84, 116, 117 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
Về tài sản chung và thực hiện nghĩa vụ về tài sản chung của vợ chồng: Chị Nguyễn Thị Mỹ H không tranh chấp về việc chia tài sản chung, nghĩa vụ về tài sản chung của vợ chồng và yêu cầu người khác thực hiện nghĩa vụ về tài sản. Anh Trương Ngọc T không có ý kiến, yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xét.
[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/PL-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc chị Nguyễn Thị Mỹ H phải chịu số tiền 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về yêu cầu ly hôn để sung vào công quỹ Nhà nước nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng mà chị Nguyễn Thị Mỹ H đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án 0000711 ngày 15 tháng 3 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.
[5] Ý kiến của Kiểm sát viên về việc giải quyết vụ án phù hợp với nhận định trên của Hội đồng xét xử.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các điều 51, 56, 81, 82, 83, 84, 116, 117 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm c khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/PL-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Mỹ H g.
1. Về quan hệ hôn nhân:
Cho chị Nguyễn Thị Mỹ H ly hôn với anh Trương Ngọc T .
Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Mỹ H và anh Trương Ngọc T theo Giấy chứng nhận kết hôn số 49/2013, quyển số 01/2013 do Ủy ban nhân dân xã Cát Sơn, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định chứng nhận ngày 06 tháng 12 năm 2013 chấm dứt kể từ ngày bản án này có hiệu lực pháp luật.
2. Về con chung:
Giao con chung của chị Nguyễn Thị Mỹ H và anh Trương Ngọc T là cháu Trương Ngọc N, sinh ngày 27 tháng 4 năm 2014 cho chị Nguyễn Thị Mỹ H trực tiếp trông nôm, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng; hiện nay chị Nguyễn Thị Mỹ H đang trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trương Ngọc N. Chị Nguyễn Thị Mỹ H không yêu cầu anh Trương Ngọc T cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xét.
Anh Trương Ngọc T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở, nhưng anh Trương Ngọc T không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của chị Nguyễn Thị Mỹ H. Khi cần thiết chị Nguyễn Thị Mỹ H và anh Trương Ngọc T đều có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng nuôi con theo quy định tại các điều 84, 116, 117 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
3. Về tài sản chung và thực hiện nghĩa vụ về tài sản chung của vợ chồng: Chị Nguyễn Thị Mỹ H không tranh chấp về việc chia tài sản chung, nghĩa vụ về tài sản chung của vợ chồng và yêu cầu người khác thực hiện nghĩa vụ về tài sản. Anh Trương Ngọc T không có ý kiến, yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xét.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc chị Nguyễn Thị Mỹ H phải chịu số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về yêu cầu ly hôn để sung vào công quỹ Nhà nước nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) mà chị Nguyễn Thị Mỹ H đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án 0000711 ngày 15 tháng 3 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.
5. Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (Ngày 10 tháng 6 năm 2019). Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt, niêm yết hợp lệ.
Bản án 121/2019/HNGĐ-ST ngày 10/06/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn
Số hiệu: | 121/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Phù Mỹ - Bình Định |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 10/06/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về